TS. NGUYỄN HỒNG OANH
Bằng một loạt những
quyết định giải quyết những vụ tham nhũng lớn gần đây, Chính phủ đã nhận
được sự cổ vũ và ủng hộ của nhân dân và thế giới về quyết tâm làm trong
sạch bộ máy và đẩy mạnh cải cách
để đưa dân tộc thoát khỏi sự kìm kẹp của đói nghèo và lạc hậu. Nhìn lại
hai thập kỷ đã qua kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới và chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, có thể thấy VN hiện thuộc nhóm những quốc
gia đang có đà tăng trưởng cao trong khu vực (khoảng 7,2%/năm) chỉ sau
Trung Quốc (9.2%/năm) [1].
Chính sách ngoại giao ôn hoà, hợp tác, cùng với nỗ
lực tham gia ASEAN, APEC, WTO và thu hút đầu tư nước ngoài đã cải thiện
đáng kể uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Bên cạnh đó VN cũng
được coi là một nước khá thành công trong xoá đói giảm nghèo và hạn chế
những tác động tiêu cực do phát triển kinh tế gây ra trong thời kỳ quá
độ. Tuy đã đạt được khá nhiều thành công, VN vẫn phải đối mặt với những
thách thức rất lớn phía trước. Cho đến nay VN vẫn chỉ được coi là một
nước nghèo với thu nhập bình quân đầu người rất thấp so với các nước
trong khu vực (Biểu 1). Tỉ lệ nghèo hiện nay vẫn còn khoảng trên 20%
nghĩa là cứ 5 hộ thì có một hộ nghèo [2]. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế
giới năm 2004-2005, chỉ số cạnh tranh phát triển của VN bị tụt 4 hạng,
xếp thứ 81 trên 117 quốc gia [3]. Điều này cho thấy trong khi những
tác dụng của chính sách đổi mới trước đây đã đi vào ổn định, VN đứng
trước nguy cơ có thể bị tụt hậu nếu không tiếp tục đẩy mạnh tiến trình
cải cách. Bài viết dưới đây chia sẻ một số ý kiến bàn luận về cải cách
kinh tế của đất nước trong điều kiện hiện tại.
Biểu 1: Thu nhập bình quân đầu người của VN và một số nước [4] (US$)
Nhật | 37050 | Trung Quốc | 1500 |
Úc | 27070 | Philippines | 1170 |
Singapore | 24760 | Indonesia | 1140 |
Hàn Quốc | 14000 | VN | 540 |
Malaysia | 4520 | Lào | 390 |
Thái Lan | 2490 | Campuchia | 350 |
Vai trò của Nhà nước và khối quốc doanh trong nền kinh tế thị trường
Về đường lối phát triển kinh tế và hội nhập, VN đã
cam kết xây dựng nền kinh tế thị trường theo “định hướng xã hội chủ
nghĩa” – một mô hình trong đó kinh tế quốc doanh “giữ vai trò chủ đạo”
[5]. Thực tế khối kinh tế quốc doanh có khoảng 12.000 DNNN giai đoạn
đầu của thời kỳ đổi mới và nay chỉ còn khoảng 4.000 DNNN và vẫn đang nắm
giữ khoảng 75% tài sản cố định quốc gia, 50% vốn đầu tư nhà nước và 60%
tín dụng ngân hàng trong nước [6]. Trong khi đó khối này chỉ đóng góp
khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội và tạo việc làm cho khoảng 10% của lực
lượng lao động của cả nước, phần còn lại chủ yếu do khu vực ngoài quốc
doanh đóng góp (Biểu 2) [7].
Phần lớn tài sản của khối quốc doanh chủ yếu nằm ở
các công ty lớn, trong đó số làm ăn có lãi một phần là do độc quyền
trong một số lĩnh vực như hàng không, dầu khí, điện lực, viễn thông. Ở
những khu vực không được bảo trợ các DNNN thường phải chật vật để cạnh
tranh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Theo Ngân
hàng Thế giới, năm 2003 tỷ lệ DNNN đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn dưới
5% (mức lãi suất thấp hơn nhiều so với lãi suất gửi tiền tiết kiệm ngân
hàng hiện tại là 7-8%/năm) là 59%. Hiệu quả hoạt động của DNNN sẽ còn
thấp nữa nếu tính tới giá trị của đất và tín dụng mà các DNNN đang được
ưu đãi [8]. Những ưu đãi này không khỏi gây khó khăn cho các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và hạn chế sức phát huy của nền
kinh tế thị trường. Điều này một phần lý giải tại sao sau 20 năm cải
cách, nhiều quốc gia vẫn chưa công nhận kinh tế VN là một nền kinh tế
thị trường, vấn đề có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp VN sau khi
gia nhập WTO nếu điều kiện “nền kinh tế phi thị trường” bị áp cho VN và
qua đó các nước nhập khẩu có thể áp đặt phương thức điều tra chống phá
giá không công bằng đối với hàng xuất khẩu từ VN.
Nhìn chung những bất cập liên quan tới DNNN đã được
giải quyết theo hai hướng chủ yếu là cổ phần hoá và cho ra đời Luật
doanh nghiệp 1999 để khuyến khích sự hoạt động của khối doanh nghiệp tư
nhân. Hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá và
phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp tư nhân kể từ năm 2000 là những
bằng chứng rõ nét thể hiện sự chuyển đổi tích cực cơ cấu kinh tế [9].
Gần đây Luật doanh nghiệp năm 2005 chung cho tất cả các loại doanh
nghiệp chứng tỏ một bước tiến mới trong việc xoá bỏ phân biệt theo thành
phần sở hữu đối với doanh nghiệp, theo đó trong 4 năm kể từ ngày có
hiệu lực (1.7.2006) tất cả các DNNN thành lập theo Luật doanh nghiệp nhà
nước 2003 phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ
phần.
Tổng kết lại có thể thấy mặc dù đã giữ vai trò chủ
đạo trong thời kỳ đầu của công cuộc cải cách như là di sản của nền kinh
tế tập trung bao cấp, khối quốc doanh đã đang phải thu hẹp trong quá
trình tiến tới một nền kinh tế thị trường để hội nhập. Tuy đây là sự
chuyển biến tất yếu và tích cực, nó cũng đặt vai trò quản lý nhà nước
vào một không gian mới với những thách thức không thể bỏ qua.
Thứ nhất, trong khi nhu cầu ngân sách nhà nước sẽ
ngày càng tăng để phục vụ cho đầu tư phát triển thì 35% nguồn thu nội
địa do các DNNN hiện đang đóng góp có thể bị ảnh hưởng khi phần lớn DNNN
chuyển đổi sở hữu. Gánh nặng ngân sách của nguồn nội địa sẽ tăng một
khi thuế xuất nhập khẩu (khoảng 20% tổng thu) phải giảm theo các cam kết
với WTO và các hiệp định thương mại tự do. Một khó khăn nữa là ngành
thuế của VN còn khá non trẻ đối với một nền kinh tế thị trường. Nhằm
bảo đảm thu thuế một cách hiệu quả, công bằng từ mọi nguồn, đặc biệt là
khu vực tư nhân (bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp), thì cải tổ ngành
thuế là cần thiết và cấp bách trong thời gian tới [10].
Vì Nhà nước không trực tiếp sở hữu và điều hành các
doanh nghiệp, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sẽ phải gián tiếp
thông qua luật pháp chung thay vì trực tiếp điều hành qua bộ chủ quản
như trước đây. Do vậy công tác xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các
khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường và hội nhập như thuế, cạnh
tranh, kinh doanh, tài chính, bất động sản, lao động, bản quyền,… là cần
thiết. Ngoài ra cần nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy lập pháp và
hành pháp và học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển.
Về quản lý các doanh nghiệp vẫn thuộc sở hữu nhà nước hay Nhà nước nắm
quyền chi phối trong thời kỳ tới, có thể thấy việc tiếp tục phát triển
các tập đoàn kinh tế nhà nước nắm quyền chi phối như hiện nay như con
dao hai lưỡi. Mục tiêu chính của tập đoàn kinh tế là tập hợp một nhóm
các doanh nghiệp nhằm tạo dựng lợi thế về qui mô (economies of scale) để
tăng hiệu quả kinh tế cũng như sức cạnh tranh. Trên nguyên tắc này,
việc thành lập các tập đoàn kinh tế sẽ đáp ứng được nhu cầu tăng tính
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước nắm quyền chi phối. Tuy nhiên
mặt trái của vấn đề là các tập đoàn kinh tế có thể trở thành những công
ty độc quyền ngăn cản sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác hoặc gây thiệt hại cho người tiêu dùng [11].
Bài học về quản lý các DNNN lớn đã cho thấy không ít
công ty lớn được Nhà nước bảo hộ thường có sức cạnh tranh thấp nhưng lại
khó diệt vong, do đó có thể gây hậu quả tai hại lâu dài gồm cả nợ khó
đòi và lao động dôi dư. Ngược lại một số công ty lớn ăn lên làm ra do
biệt tận dụng lợi thế của mình, giám đốc có thể rút ruột tài sản công mà
vẫn có thành tích vì công ty vẫn làm ăn có lãi. Giải pháp cho những
vấn đề này là hoàn thiện cơ chế quản lý về nhân sự và tài chính của
doanh nghiệp thích hợp. Đồng thời cần giám sát chặt chẽ hoạt động cạnh
tranh và có can thiệp thích hợp nếu có độc quyền, lạm dùng độc quyền.
Nhằm giảm bớt gánh nặng quản lý và ngân sách, nhà nước vẫn cần tiếp tục
đẩy mạnh cổ phần hoá các công ty lớn để bộ máy điều hành chịu sự giám
sát của hội đồng quản trị nhiều thành phần và tiếp cận với nguồn vốn của
dân.
Tham nhũng và bộ máy quản lý
Một trong những rào cản lớn đối với phát triển trong
quá trình quá độ đối với các nước đang phát triển là nạn tham nhũng đi
đôi với hiệu quả của bộ máy quản lý thấp. Nạn tham nhũng ở VN không
phải là vấn đề mới lạ nhưng không ít ý kiến cho rằng nó đã trở nên phổ
thông, hệ thống và nghiêm trọng. Trong khi lương công chức theo qui
định chỉ có vài triệu đồng một tháng, nhiều người vẫn có đủ tiền mua xe
hơi, xe máy đắt tiền, nhà to, cho con cái đi du học. Gần đây một loạt
các vụ án tham nhũng lớn cấp thành phố, tổng công ty và cấp bộ xảy ra
với thất thoát hàng tỷ đồng mỗi vụ. Chỉ tính con số thống kê chính thức
năm 2002, ngành thanh tra phát hiện các sai phạm với tổng giá trị lên
tới 2.739 tỷ đồng với 12.512 hecta đất, mặc dù “Tỉ lệ phát hiện như vậy
rất nhỏ và chưa phản ánh đúng thực tế xã hội đòi hỏi” [12].
Tham nhũng (bao gồm cả tham ô và hối lộ) tác động
tiêu cực tới phát triển kinh tế của đất nước. Về mặt kinh tế, hối lộ
làm tăng chi phí sản xuất. Trong thời kỳ hội nhập và cạnh tranh quốc tế
thì điều này có nghĩa là một quốc gia có tệ tham nhũng càng nghiêm trọng
sẽ càng bị mất lợi thế cạnh tranh. Đối với cạnh tranh trong nước, tham
nhũng gây nên cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Doanh
nghiệp trốn được thuế (do biết đi cửa sau) sẽ có giá bán thấp hơn các
doanh nghiệp khác thực hiện đầy đủ các loại thuế. Tham nhũng cũng ảnh
hưởng tới đầu tư (trong nước và nước ngoài) vì nó làm giảm niềm tin của
các nhà đầu tư và mức độ hấp dẫn của môi trường kinh doanh. Tham nhũng
còn thể hiện những bất công trong xã hội và giảm hiệu quả quản lý nhà
nước. Một giám đốc tham ô của nhà nước 1 tỷ đồng thì không có nghĩa là
nền kinh tế bị thiệt hại 1 tỷ đồng đó. Thực ra tiền chỉ chuyển từ nhà
nước sang túi của vị giám đốc đó. Nếu số tiền trên được lấy từ quĩ phúc
lợi của một công ty thì cũng có nghĩa là công nhân của công ty đó bị
cướp đi khoản tiền đúng bằng đó.
Muốn giải quyết được nạn tham nhũng phải xác định và
diệt trừ căn nguyên của nó, đó chính là sự bất hợp lý trong chế độ thù
lao của công chức so với lao động ở các khu vực kinh tế khác. Nếu trong
một nền thị trường mà sức lao động cũng là một loại hàng hoá thì không
thể trông đợi công chức với đồng lương một vài triệu/tháng vẫn cống hiến
hết tài đức cho xã hội. Để đẩy lùi nguy cơ tham nhũng do vậy cần bảo
đảm thu nhập cho công chức theo mức mà thị trường lao động chấp nhận.
Tuy vậy, tăng lương cho khối nhà nước thì không tránh khỏi bùng nổ ngân
sách và lạm phát phi mã như đã từng xảy ra trong thời bao cấp. Mặt
khác, nếu giữ chi ngân sách cố định thì để tăng lương gấp đôi thì cũng
có nghĩa là phải cắt giảm một nửa nhân lực – điều không khả thi đối với
một nền kinh tế đang phát triển như VN. Thực tế năm 2004 bộ máy hành
chính cố gắng cắt giảm được khoảng 13.000 lao động thì tổng số biên chế
tăng thêm khoảng 60.000 lao động [13]. Qua đây có thể thấy sự phức tạp
của tham nhũng là ở chỗ nó gắn liền với bộ máy nhà nước kém hiệu quả.
Do đó về mặt chiến lược cần xác định chống tham nhũng phải đi đôi với
cải cách bộ máy hành chính.
Để diệt trừ tham nhũng trước mắt cần cải thiện hệ
thống pháp luật và bộ máy điều tra, thanh tra, giám sát, chống tham
nhũng. Nhưng để thành công thì bộ máy chống tham nhũng phải thực sự
trong sạch và mạnh. Một số bài học rút ra từ những số vụ tham nhũng lớn
điển hình gần đây là:
° Giao nhiều quyền hành (và cả trách nhiệm) hơn cho
những người đứng đầu bộ máy điều tra, thanh tra, chống tham nhũng.
Chẳng hạn việc thủ tướng là trưởng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng là
một quyết định đúng trong bối cảnh hiện nay.
° Cần có nhiều “Bao Công” hơn để bộ máy chống tham
nhũng đủ mạnh. Trong bối cảnh tham nhũng tràn lan như hiện nay, nếu chỉ
có Ban chỉ đạo làm việc đắc lực thì cũng chỉ giải quyết được những vụ
tham nhũng lớn. Để bảo đảm hiệu quả chống tham nhũng ở cấp tỉnh trở
xuống, cần có quyết sách đối với lãnh đạo ở các cấp này. Chẳng hạn cần
nâng cao và củng cố vai trò của hội đồng nhân dân ở các cấp địa
phương.
° Triển khai áp dụng bằng được Luật chống tham nhũng hiệu quả và rộng rãi.
° Thiết lập đường dây nóng chống tham nhũng trên toàn
quốc. Đẩy mạnh tuyên truyền chống tham nhũng trên cả nước trên các
phương tiện truyền thông đại chúng.
° Đẩy mạnh hơn nữa vai trò của báo chí và thông tin
đại chúng trong cuộc chiến chống tham nhũng. Nếu chúng ta có được một
hệ thống báo chí và thông tin đại chúng dân chủ và tốt như bây giờ từ
cách đây vài thập kỷ thì hẳn VN ngày nay đã khác.
Đặc điểm của những giải pháp trên là có tác dụng ngay
nhưng chưa chắc đã bền vững. Vì nếu chỉ tập trung làm trong sạch mà
không cải thiện thu nhập và chính sách đãi ngộ phù hợp có thể dẫn tới
nguy cơ bị mất chất xám và cán bộ giỏi. Bên cạnh đó phải kể đến những
ràng buộc mang tính hệ thống như đã thấy khi đụng vào những đối tượng
thuộc diện “trung ương quản lý”. Mặt hạn chế của hệ thống hiện nay là
khả năng ứng phó của nó đối với những cú sốc kiểu như vụ PMU18. Việc
giải quyết với những tình huống như vậy còn phụ thuộc vào ý chí của lãnh
đạo nhiều hơn là sức ép của bản thân hệ thống. Do vậy để bảo đảm hiệu
quả và bền vững, chống tham nhũng cần đi đôi với cải cách bộ máy hành
chính và thể chế như đã đề cập ở trên.
Nhân lực và cạnh tranh để hội nhập
Rốt cục vấn đề cốt lõi để giải quyết nạn tham nhũng
và tăng hiệu quả quản lý nhà nước là cải thiện được chất lượng con người
trong bộ máy. Vấn đề nhân lực không chỉ quan trọng đối với bộ máy quản
lý hành chính mà cả nền kinh tế nước nhà trong thời kỳ hội nhập nói
chung.
Nguồn lực vật chất đã đóng vai trò quan trọng trong
tăng trưởng kinh tế trong suốt 20 năm đổi mới nhưng xét về sâu xa mới
chỉ là điều kiện cần để thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong kỷ nguyên
toàn cầu hoá và tự do thương mại, tích luỹ tư bản thông qua hoạt động
của nền kinh tế thị trường sẽ nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đầu tư và công
nghệ của các quốc gia. Khi đó yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh của
một quốc gia sẽ không còn bị lệ thuộc nhiều vào tích luỹ tư bản mà chủ
yếu là nhân lực. Sự bùng nổ đầu tư nước ngoài vào một số nước châu Á
trong mấy thập kỷ qua đã cho thấy một trong những nhân tố chủ yếu thu
hút đầu tư nước ngoài là nguồn nhân lực. Đầu tư nước ngoài sẽ đổ về nơi
có lao động rẻ hơn mà “rẻ” ở đây không phải là về giá trị tuyệt đối của
chi phí nhân công mà là giá trị tương đối của nó so với giá của sản
phẩm được làm ra hoặc so với chi phí nhân công ở những nước khác. Điều
này có nghĩa chất lượng con người sẽ là yếu tố quyết định cuối cùng
quyết định đến tăng trưởng và sức cạnh tranh của quốc gia vì những ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp (thông qua thu hút đầu tư nước ngoài).
Đánh giá về tiềm năng, VN có lợi thế về nguồn lao động dồi dào với dân
số khá lớn và chỉ số phát triển con người, theo Chương trình phát triển
Liên Hiệp Quốc (UNDP), ở mức 108 trong số 177 quốc gia [14]. Tuy vậy
theo Bộ LĐTBXH thì khoảng 3/4 lực lượng lao động của cả nước vẫn chưa
qua đào tạo [15]. Để phát triển được lợi thế tương đối về nguồn lực lao
động, thì phát triển chất lượng nguồn lao động cần phải được ưu tiên
như một nhiệm vụ chiến lược.
Một vấn đề khác liên quan đến vấn đề nhân lực là sự
phân bổ lao động. Biểu 3 cho thấy ngành nông, lâm nghiệp hiện chiếm 55%
lực lượng lao động của cả nước, trong khi chỉ đóng góp khoảng 18% tổng
thu nhập quốc dân [16]. Trong điều kiện đất chật, người đông thì một
trong những giải pháp cho ngành này là thúc đầy cơ giới hoá để tăng năng
suất. Điều này đồng nghĩa với nguy cơ thừa lao động trong ngành nông
nghiệp và việc phải cơ cấu lại (đào tạo, chuyển đổi) một phần lực lượng
lao động không nhỏ từ nông nghiệp sang các ngành khác. Biểu hiện thực
tế của vấn đề này là làn sóng lao động từ ngoại tỉnh đổ về các thành phố
và khu công nghiệp đang ngày càng một tăng. Nhà nước cần coi như đây là
một cơ hội và sớm có chính sách giải quyết thích hợp vì trong tương lai
ngành dịch vụ và công nghiệp sẽ còn chiếm tỉ trọng cao hơn và cần nhiều
lao động hơn.
Liên quan tới chất lượng con người thì không thể
không kể tới chất lượng giáo dục và đào tạo. VN cần một sự cải tổ toàn
diện ngành GDĐT vì hệ thống giáo dục từ tiểu học đến cao học vốn nặng về
lý thuyết, yếu về thực hành, không cân đối giữa đào tạo đại học và dạy
nghề. Một thách thức đối với vấn đề nhân lực là trí thức và lao động VN
còn bị rào cản về ngôn ngữ khiến cho lao động VN ít hấp dẫn hơn so với
các nước trong khu vực.
Trở lại vấn đề cải cách hành chính và chống tham
nhũng nhìn dưới góc độ chất lượng nhân lực. Bài học sau 20 năm đổi mới
là nếu thị trường hoá (xoá bỏ rào cản đối với cung, cầu) đối với hàng
hoá, dịch vụ thì chất lượng hàng hoá, dịch vụ vừa nhiều, vừa tốt, vừa rẻ
hơn so với thời bao cấp. Nếu xã hội hoá dịch vụ công ích (mà thực chất
là thị trường hoá), như dịch vụ vận tải, thì chất lượng dịch vụ cao hơn
với giá cả thấp hơn. Vậy sao không mở cửa đối với lao động trong khu
vực nhà nước để cải thiện chất lượng nhân lực trong khu vực này? Thực tế
hàng nghìn tỷ đồng được đầu tư cho các dự án chính phủ điện tử khắp cả
nước nhưng không mấy cơ quan nhà nước công khai thông báo tuyển dụng
trên trang web của mình. Trên các báo, quảng cáo tuyển dụng của các cơ
quan, doanh nghiệp nhà nước chỉ lác đác. Không ít ý kiến cho rằng tuyển
dụng vẫn chủ yếu mang tính nội bộ, ưu tiên con em lãnh đạo, người ngoài
bộ máy khó được tiếp nhận nếu không quen biết hoặc không đáp ứng được
các tiêu chuẩn chính trị (đặc biệt đối với các vị trí lãnh đạo),… Cùng
với thu nhập kém hấp dẫn, tuyển dụng nhân sự là một trong những rào cản
đối với việc cải thiện bộ máy hành chính. Phân tích trên cho thấy một
số vấn đề liên quan đến việc tăng cường chất lượng nhân lực cần được
giải quyết là:
° Đẩy mạnh cải cách trong công tác tổ chức nhân sự trong khu vực nhà nước.
° Đưa vào luật những vấn đề liên quan tới tuyển dụng
và quản lý nhân lực trong các cơ quan tổ chức hành chính trong đó có
những chính sách cụ thể ngăn chặn nạn con ông cháu cha.
° Qui định các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước về việc công khai tuyển dụng trên mọi phương tiện thông tin đại chúng.
° Mạnh dạn hạn chế tới mức tối thiểu và tiêu chuẩn
hoá những yêu cầu liên quan tới chính trị không cần thiết đối với nhân
sự làm việc trong bộ máy thuần tuý mang tính hành chính, công ích và
thay vào đó là yêu cầu về bằng cấp, kinh nghiệm chuyên môn, ngoại ngữ và
tin học.
° Thực hiện khoán quĩ lương và khuyến khích đa dạng
hoá các hình thức tuyển dụng (hợp đồng ngắn hạn, dài hạn, vụ việc, …).
Việc đa dạng hoá hình thức tuyển dụng không chỉ tiết kiệm ngân sách mà
còn tăng hiệu quả hoạt động của các cơ quan do khuyến khích chuyên môn
hoá.
Xoá đói giảm nghèo
Một trong những thành tích nổi bật của 20 năm đổi mới
là giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 57% năm 1993 xuống còn khoảng 20% năm 2005.
Tuy đây là một thành công ấn tượng song tỷ lệ này vẫn còn khá cao và vẫn
nên được ưu tiên giải quyết trong thời gian tới. Cần chú ý rằng tăng
trưởng kinh tế cao không hoàn toàn có nghĩa là đói nghèo sẽ giảm vì
không có gì đảm bảo rằng mức sống của tất cả mọi đối tượng trong xã hội
đều được tăng như nhau. Thực tế tăng trưởng cao thường đi kèm với tăng
khoảng cách giàu nghèo bởi vậy cần xác định xoá đói nghèo là một nhiệm
vụ không thể tách rời trong quá trình phát triển.
Đặc điểm nổi bật của nghèo đói ở VN là khoảng 90% hộ
nghèo sống ở nông thôn mà sinh kế chủ yếu là nghề nông. Do vậy phát
triển nông nghiệp là giải pháp tất yếu trong công cuộc xoá đói giảm
nghèo. Một thách thức căn bản của nông nghiệp VN là năng suất thấp mà
lý do chủ yếu là do sản xuất manh mún và nông dân thiếu vốn trầm trọng.
Cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp là cần thiết nhưng điều kiện tiên
quyết là đồng ruộng phải đủ lớn không thể nhỏ lẻ manh mún. Bởi vậy cần
bắt đầy từ việc đẩy mạnh cải cách địa chính và dồn điền đổi thửa. Mặt
khác để bảo đảm vốn cho sản xuất nông nghiệp, nhà nước vẫn cần duy trì
tín dụng ưu đãi cho các đối tượng nghèo đồng thời đẩy mạnh khuyến khích
đầu tư trong nông nghiệp.
Liên quan đến năng suất không thể không nói tới những
hạn chế trong nghiên cứu khoa học và phổ biến công nghệ (giống, công
nghệ nuôi, trồng, bảo quản sau thu hoạch) cho bà con nông dân. Do chất
lượng liên quan đến giá thành nên VN tuy đứng thứ 2 trên thế giới về số
lượng gạo xuất khẩu nhưng chỉ đứng thứ 4 về doanh thu.
Mặt khác có thể thấy mối liên hệ giữa đói nghèo và tỷ
lệ thời gian lao động trong nghành nông nghiệp. Hiện tại tỉ lệ thời
gian lao động trung bình cả nước chỉ đạt 79%, trong khi các vùng có tỷ
lệ nghèo cao là Bắc Trung bộ và Tây Bắc chỉ có tỷ lệ thời gian lao động
76% và 77% [17]. Biểu 4 cho thấy mối liên hệ giữa thời gian lao động và
tỷ lệ nghèo của tất cả 8 vùng trong cả nước theo đó nếu thời gian lao
động tăng lên 1% thì tỷ lệ hộ nghèo sẽ giảm đi khoảng 1,8% [18]. Để
giải quyết vấn đề này cần đa dạng hoá hoạt động sản xuất nông nghiệp
nhằm giảm thời gian nông nhàn. Ngoài ra Nhà nước cũng cần có chính sách
cơ cấu lại lao động nông thôn bằng cách tạo điều kiện thu hút lao động
vào các khu công nghiệp và các thành phố như đã đề cập ở trên [19].
Một đặc điểm khác của nông nghiệp VN là vẫn nặng về
sản xuất nuôi trồng trong khi kém về chế biến và giá trị gia tăng. Ba
hệ quả trực tiếp của vấn đề này là giá trị sản phẩm đầu ra thấp (do sản
phẩm chủ yếu là thô), xuất khẩu chịu rủi ro cao do thị trường nông sản
thế giới thay đổi thất thường, và chịu ảnh hưởng tiêu cực của tính thời
vụ (bán rẻ vào mùa thu hoạch). Ngành chế biến nông sản vẫn chưa được
khai thác một cách triệt để và cần được khuyến khích. Trong thời gian
qua tuy một số doanh nghiệp chế biến của nhà nước đã được thành lập ở
các địa phương, nhưng kết quả không như mong đợi do các doanh nghiệp
không những không phát huy được khả năng mà còn hạn chế đầu tư và cạnh
tranh của các thành phần kinh tế khác. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh
cổ phần hoá các doanh nghiệp chế biến đồng thời có chính sách khuyến
khích đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Đầu tư cơ
sở hạ tầng cho các vùng nông thôn ở VN trong thời gian qua đã giúp làm
thay đổi bộ mặt, cải thiện điều kiện sống ở các vùng nông thôn và giảm
chi phí sản xuất nông nghiệp. Nếu đầu tư sản xuất và chế biến nông sản
được tăng cường thì tác động của cơ sở hạ tầng nông thôn mới được phát
huy triệt để.
Cuối cùng là khả năng chống chọi của người nghèo với
thiên tai, bão, lũ. Mức thiệt hại về kinh tế trung bình hàng năm do
thiên tai gây ra tương đương khoảng 2% của tổng thu nhập quốc dân, tương
đương khoảng 120 nghìn tỷ đồng [20]. Tuy con số không phải là lớn đối
với cả nền kinh tế, nhưng thường thập trung vào một số vùng vốn đã nghèo
như miền Trung nên ảnh hưởng của thiên tai đối với đói nghèo cũng rất
nghiêm trọng. Giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây nên đối với các tỉnh
có tỷ lệ nghèo cao sẽ đóng góp tích cực vào công cuộc xoá đói nghèo một
cách bền vững và làm giảm tình trạng tái nghèo có thể xảy ra do ảnh
hưởng của thiên tai.
Lời kết
Trong kỷ nguyên kinh tế toàn cầu và hội nhập, khi mà
cạnh tranh giữa các quốc gia trở nên khắc nghiệt thì lợi thế tương đối
càng trở nên quan trọng. Trong một thế giới mà hàng hoá, vốn đầu tư và
công nghệ dễ dàng luân chuyển giữa các quốc gia thì lợi thế quốc gia sẽ
phụ thuộc vào yếu tố còn lại là nhân lực (cả chất, số lượng) và trình độ
quản lý. Yếu tố thứ hai phụ thuộc vào nhân lực và thể chế. Nói tóm
lại thì nhân lực và thể chế là những yếu tố không thể bỏ qua để phát
triển và hội nhập vì chúng gắn liền với quốc gia, địa phương, văn hoá,
sắc tộc – điều này lý giải tại sao giá trị xuất khẩu lao động nhỏ không
đáng kể so với xuất khẩu hàng hoá đối với hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Bốn vấn đề đã được đề cập trên là vai trò của Nhà nước, chống
tham nhũng, phát triển nguồn lực và xoá đói nghèo, xoay quanh hai yếu tố
này.
Nhìn lại tiến bộ so với thời kỳ trước đổi mới thì có
thể thấy VN đã đi được một quãng đường dài, thu nhập đầu người tăng gấp
đôi trong vòng một thập kỷ là một mốc son trong chặng đường lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước. Tuy vậy, những thành công mà chúng ta vẫn tự hào lại
chủ yếu là do tự cởi trói mình bằng cách “xoá bỏ ngăn sông cấm chợ”
[21]. Ngày nay khi tác động của những thay đổi mang tính vĩ mô này đã
đi vào ổn định, thành công trong thời kỳ tới đòi hỏi nhiều hơn ở những
đổi mới ở tầm vi mô, trong khi Nhà nước lại không còn trực tiếp can
thiệp vào hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp.
Từ mức thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia
(Biểu 1) có thể thấy nếu VN vẫn chỉ giữ mức tăng trưởng bình quân đầu
người như hiện nay thì phải mất 26 năm VN mới đạt được mức thu nhập bình
quân đầu người như mức hiện tại của Thái lan (với mức sống khá trong
các nước đang phát triển) và mất 66 năm mới đạt được mức thu nhập bình
quân đầu người như mức hiện tại của Singapore (với mức sống khá trong
nhóm các nước công nghiệp). Còn để đuổi kịp về mức thu nhập bình quân
đầu người như của hai nước này, VN cần tới 54 năm để đuổi kịp Thái Lan
và 91 năm để đuổi kịp Singapore [22]. Tất nhiên với tốc độ tăng trưởng
bình quân đầu người thấp hơn của Trung quốc thì VN sẽ không bao giờ đuổi
kịp được. Nhằm rút ngắn thời gian thì VN phải đạt tốc độ tăng trưởng trên 9% là cần thiết và điều này cũng khả thi nếu tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới.
Đây cũng là mục tiêu mà nhân dân có thể kỳ vọng từ sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước để VN được sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ
mong muốnª
Chú thích
[1] Ngân Hàng Thế giới (2006), http://devdata.worldbank.org/.
[2] Theo qui định mới của chính phủ áp dụng cho
giai đoạn 2006-2010, chuẩn nghèo được qui định là mức thu nhập
200.000đ/người/tháng đối với nông thôn và 260.000đ/tháng đối với thành
thị.
[3] Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2006), Chỉ số Cạnh tranh Phát triển [Growth Competitiveness Index], http://www.weforum.org/.
[4] Nguồn: Xem chú thích 1.
[5] Điều 15 và 19, Hiến Pháp VN 1992.
[6] Thời báo Kinh tế VN (2006), Vào WTO, Chính phủ và doanh nghiệp phải cùng nhau tháo gỡ, http://www.vneconomy.com.vn/vie/index.php?param=article&catid=01&id=58161b87cc2496. Truy cập 28/8/2006.
[7] Tổng cục Thống kê (2005), Niên giám Thống kê, NXB Thống kê, Hà nội.
[8] Ngân hàng Thế giới (2005), Báo cáo phát triển VN 2006 [Vietnam Development Report 2006], Hà nội, trang 11.
[9] Theo Nhân Dân Điện Tử (2002), http://www.nhandan.org.vn/vietnamese/20020101/bai-kt8.html,
Thống kê đến cuối năm 2000, có hơn 40% DNNN không hoạt động có hiệu
quả, và tổng số nợ của các DNNN lên đến 190.000 tỷ đồng tương đương 33%
tổng thu nhập quốc dân.
Năm 2004, tỉ lệ lao động cho khối doanh nghiệp
tư nhân là 17%, cao hơn gấp đôi tổng số lao động làm việc cho khối quốc
doanh và hành chính nhà nước cộng lại, 8,4%. Nguồn: Xem chú thích 7.
[10] Nguồn: Bộ tài chính (2006), Dự toán thu, chi ngân sách các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương năm 2005, http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=87.
[11] Về lý thuyết, tác dụng tiêu cực về kinh tế
của độc quyền luôn lớn hơn lợi ích mà nó mang lại. Các nước phát triển
thường chỉ cho phép độc quyền ở những lĩnh vực không cần thiết phải
khuyến khích cạnh tranh thuần khiết như phân phối điện, nước.
[12] Tuổi trẻ (2003), Thủ tướng Phan Văn Khải: Sai phạm nhiều kỷ luật chẳng bao nhiêu, http://media.vdc.com.vn/top/ctxh/chitiet.cfm?id=57425, cập nhật 27/2/2003.
[13] Báo Thanh niên ngày 24/1/2005.
[14] Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (2005), Báo cáo phát triển con người 2005 [Human Development Report 2005].
[15] Vietnamnet (2006), Năm 2005: 1,6 triệu người được giải quyết việc làm, http://www.vietnamnet.vn, ngày 11.1.
[16] Nguồn: Xem chú thích 7.
[17] Nguồn: Xem chú thích 7.
[18] Dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê và Bộ lao động, thương binh và xã hội.
[19] Xem thêm chi tiết trong bài của Ngân hàng
Thế giới (2005), Tăng cường phát triển nông nghiệp VN [Accelerating
rural development Vietnam], Hà nội.
[20] Nguồn: Xem chú thích 19.
[21] Võ Văn Kiệt (2006), Nhớ đồng chí Lê Duẩn, Báo Nhân Dân, ngày 16 tháng 8.
[22] Tốc độ tăng trưởng trung bình của thu nhập
bình quân đầu người sẽ thấp hơn mức tăng trưởng tổng thu nhập quốc gia
nếu dân số tăng và ngược lại. Số liệu của Ngân hàng Thế giới cho giai
đoạn 2000-2004. Nguồn: Xem chú thích 1.
SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 193, THÁNG 11/2006
0 comments:
Post a Comment