TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN – KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ – ĐHL HÀ NỘI
Bảo lãnh bằng tài sản nói chung và bảo lãnh bằng tài
sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng nói riêng là giao dịch hợp đồng được
thiết lập giữa pháp nhân, thể nhân (đóng vai trò là người bảo lãnh) với
bên có quyền về việc người bảo lãnh cam kết sẽ dùng các tài sản của
mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu đến hạn người
này không thực hiện được nghĩa vụ của họ đối với bên có quyền. Trong
thực tiễn hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, giao dịch cho
vay có điều kiện bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba được xem là
nghiệp vụ cho vay khá phổ biến, bởi tính chặt chẽ trong thủ tục vay vốn
và độ an toàn cao về phương diện kinh tế của nghiệp vụ tín dụng này.
Bài viết này xin đề cập những khía cạnh pháp lí cơ
bản của giao dịch bảo lãnh bằng tài sản vay vốn ngân hàng với mong muốn
góp phần làm sáng tỏ hơn về phương diện lí luận đối với hợp đồng bảo
lãnh, trên cơ sở đó tạo tiền đề lí thuyết cho hoạt động thực tiễn của
các ngân hàng thương mại được an toàn hơn và hiệu quả hơn trong điều
kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.
1. Bản chất pháp lí của hành vi bảo lãnh bằng tài sản: Dân sự hay thương mại?
Câu trả lời ở đây là: Có những hành vi bảo lãnh chỉ
thuần tuý là dân sự và cũng có những hành vi bảo lãnh được coi là hành
vi thương mại.
Bảo lãnh nói chung và bảo lãnh bằng tài sản nói riêng
khi mới xuất hiện trong đời sống, vốn dĩ là hành vi dân sự thuần tuý,
bởi lẽ khi lập văn bản bảo lãnh thì người bảo lãnh đã tự nguyện ràng
buộc mình với những quyền và nghĩa vụ pháp lí nhất định, không vì mục
tiêu lợi nhuận nào cả. Mặt khác, hành vi bảo lãnh thuần tuý thông thường
không bắt buộc phải có dấu hiệu hoàn trái, nghĩa là người bảo lãnh, với
tư cách là chủ nợ mới của người được bảo lãnh, có toàn quyền quyết định
việc truy đòi món nợ hay không đối với người được bảo lãnh, sau khi
mình đã thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh. Ngoài ra, hành
vi bảo lãnh thuần tuý thường có tính nhất thời, không mang tính chất
chuyên nghiệp và cũng do không nhằm mục đích rõ ràng là thu lợi nhuận
như những hành vi thương mại nên loại hành vi này không phải đăng kí
kinh doanh với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước. Tất cả những hành vi
bảo lãnh thuần tuý không có tính chuyên nghiệp và không nhằm mục đích
kiếm lời đều phải được xem là những hành vi dân sự (phi thương mại).
Tuy nhiên, theo đà phát triển của nền thương mại và
kĩ nghệ, một số chủ thể kinh doanh, đặc biệt là các ngân hàng đã bắt đầu
thực hiện thường xuyên hoạt động bảo lãnh cho khách hàng để thu phí bảo
lãnh. Loại hành vi bảo lãnh này dần dần có tính chất chuyên nghiệp và
trở thành loại hình dịch vụ đặc biệt có khả năng sinh lời cho người thực
hiện chúng. Vì thế, những hành vi bảo lãnh có tính chuyên nghiệp với
mục đích rõ ràng là thu lợi nhuận như vậy đã mặc nhiên trở thành những
hành vi thương mại và cần phải được Nhà nước đối xử như hành vi thương
mại.
Như vậy, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường
hiện đại, chỉ những hành vi bảo lãnh có tính chất chuyên nghiệp của các
ngân hàng (hay các tổ chức khác được phép thực hiện các hoạt động ngân
hàng) với mục tiêu kiếm lời (dạng hoạt động bảo lãnh đặc thù này được
gọi là nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng) mới được coi là hành vi thương mại.
Còn sự bảo lãnh thuần tuý của tổ chức, cá nhân cho nghĩa vụ tài sản của
người khác phát sinh trong hoặc ngoài hợp đồng, không phải là chuyên
nghiệp và không có mục tiêu kiếm lời thì cần phải được nhìn nhận như là
những hành vi dân sự.
Việc xác định đúng bản chất pháp lí của hành vi bảo
lãnh là dân sự hay thương mại sẽ có ý nghĩa, tác dụng rất lớn trong việc
xác định thẩm quyền và thủ tục giải quyết những tranh chấp liên quan
đến hành vi đó.
2. Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng là giao dịch hai bên hay ba bên?
Đây là vấn đề vẫn còn đang tranh luận trong giới luật gia. Tuy nhiên, theo dự liệu tại Điều 366 Bộ luật dân sự Việt Nam thì “bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ“.
Theo đó, bảo lãnh thực chất là giao dịch hợp đồng
phát sinh giữa người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh (hợp đồng song
phương) chứ không hề có sự tham gia của bất kì người thứ ba nào, cho dù
trong hoàn cảnh này người đi vay (người được bảo lãnh) có những quyền
lợi liên quan đến sự bảo lãnh. Tuy nhiên, với cách nhìn khác, một số ý
kiến lại cho rằng giao dịch bảo lãnh bằng tài sản nói chung và giao dịch
bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng nói riêng là loại
hình giao dịch ba bên, trong đó người được bảo lãnh cũng là chủ thể của
hợp đồng bảo lãnh. ý kiến này xuất phát từ lập luận cho rằng hợp đồng
bảo lãnh chẳng qua là một hợp đồng phụ bổ sung cho hợp đồng chính và
hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính. Do vậy, chủ thể
tham gia hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng) cũng đương nhiên là chủ thể
của hợp đồng phụ (hợp đồng bảo lãnh).
Theo ý kiến của chúng tôi, quan điểm cho rằng hợp
đồng bảo lãnh bằng tài sản thuộc loại hợp đồng ba bên là không có cơ sở
khoa học. Bởi lẽ, theo logic thông thường, nếu người đủ năng lực chủ thể
đồng ý đem tài sản của mình để trả nợ thay cho người khác với mục đích
trong sáng và hợp pháp, trên cơ sở sự chấp thuận của bên có quyền thì
mặc nhiên sự cam kết này đã phát sinh hiệu lực pháp lí và có giá trị
ràng buộc đối với các bên cam kết. Trong trường hợp này, việc bên có
nghĩa vụ (người được bảo lãnh) có đồng ý và chấp nhận sự bảo lãnh đó hay
không cũng không hề làm giảm sút giá trị pháp lí của sự bảo lãnh. Sai
lầm của quan niệm coi hợp đồng bảo lãnh là giao dịch ba bên chính là ở
chỗ họ chỉ nhìn thấy tính chất phụ thuộc về hiệu lực của hợp đồng bảo
lãnh vào hiệu lực của hợp đồng chính mà không nhìn thấy tính độc lập
tương đối của bản thân hợp đồng bảo lãnh so với hợp đồng chính. Điều đó
đã dẫn đến sự suy đoán rằng chủ thể của hợp đồng bảo lãnh không thể nào
thiếu người được bảo lãnh. Cách suy luận này đã thể hiện sự nhận thức
không chính xác về vị trí và tư cách pháp lí của người được bảo lãnh
trong quan hệ hợp đồng bảo lãnh, vốn dĩ người này chỉ đóng vai trò là
người thứ ba có quyền lợi liên quan đến sự bảo lãnh.
Vấn đề đặt ra ở đây là mặc dù người được bảo lãnh
không phải là chủ thể của hợp đồng bảo lãnh nhưng liệu rằng ý chí của họ
có ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh hay không? Theo ý kiến
của chúng tôi, việc pháp luật quy định người được bảo lãnh không phải là
chủ thể hợp đồng bảo lãnh là hoàn toàn hợp lí và có cơ sở khoa học
nhưng rõ ràng ý chí và hành động của người được bảo lãnh có thể gây ra
những ảnh hưởng nhất định đối với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng bảo lãnh. Thật vậy, về nguyên tắc nếu người được bảo
lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối với bên có quyền (người
nhận bảo lãnh) thì khi đó người bảo lãnh sẽ phải đứng ra thực hiện nghĩa
vụ thay cho người được bảo lãnh. Ngược lại, nếu người được bảo lãnh đã
hoàn tất nghĩa vụ của họ đối với bên có quyền thì mặc nhiên nghĩa vụ của
người bảo lãnh phát sinh theo hợp đồng bảo lãnh cũng chấm dứt. Tuy
nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng sự bảo lãnh trong dân luật nói chung
cũng như trong nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại nói riêng,
nếu ý chí của người được bảo lãnh có thay đổi làm cho nội dung thực chất
của nghĩa vụ được bảo lãnh cũng thay đổi thì về nguyên tắc không thể
đương nhiên và tự động làm cho nghĩa vụ của người bảo lãnh thay đổi
theo, trừ khi có sự đồng ý của người này.
Ví dụ: A cam kết bảo lãnh
cho B vay tiền của Ngân hàng C, với mục đích sử dụng vốn vay vào việc
đầu tư dây chuyền sản xuất dép nhựa. Sau khi nhận được tiền vay, do điều
kiện và thời cơ kinh doanh bị thay đổi, B thoả thuận lại với Ngân hàng C
về mục đích sử dụng vốn vay và được Ngân hàng C đồng ý cho chuyển mục
đích sử dụng vốn vay sang lĩnh vực kinh doanh hàng may mặc, kèm theo
thoả thuận về việc điều chỉnh tăng lãi suất tiền vay cho phù hợp với
tình hình mới. Với thoả thuận này giữa B với Ngân hàng C, rõ ràng nội
dung nghĩa vụ được bảo lãnh đã có sự thay đổi nhưng không vì thế mà nội
dung nghĩa vụ bảo lãnh của A đối với Ngân hàng C đương nhiên thay đổi
theo, trừ khi có bằng cớ chứng minh rằng A đã chấp nhận bảo lãnh cho
tình trạng mới của nghĩa vụ được bảo lãnh.
Ví dụ trên đây một lần nữa khẳng định và chứng minh
rằng người được bảo lãnh thực tế không nhất thiết phải đóng vai trò là
chủ thể của hợp đồng bảo lãnh và ý chí của họ cũng không thể đơn phương
làm thay đổi nội dung của hợp đồng bảo lãnh.
3. Tình trạng liên đới giữa nghĩa vụ bảo lãnh với nghĩa vụ được bảo lãnh
Trên phương diện lí thuyết, nghĩa vụ của người được
bảo lãnh đối với bên có quyền (hay còn gọi là nghĩa vụ được bảo lãnh)
đóng vai trò là nghĩa vụ chính còn nghĩa vụ của người bảo lãnh (hay
nghĩa vụ bảo lãnh) chỉ là nghĩa vụ phụ. Tính chất chính, phụ của hai
loại nghĩa vụ này không chỉ thể hiện sự lệ thuộc về phương diện hiệu lực
pháp lí của nghĩa vụ bảo lãnh vào nghĩa vụ được bảo lãnh mà còn phản
ánh thứ tự thực hiện hai loại nghĩa vụ này đối với bên có quyền. Nói
khác đi, để không đồng hoá tình trạng pháp lí của người bảo lãnh với
tình trạng pháp lí của người được bảo lãnh (vốn dĩ hai người này có vị
trí khác nhau đối với trái chủ) thì pháp luật cần phải xây dựng nguyên
tắc là nghĩa vụ được bảo lãnh (nghĩa vụ chính) cần phải được trái chủ
yêu cầu thực hiện trước còn nghĩa vụ bảo lãnh (nghĩa vụ phụ) sẽ được
trái chủ yêu cầu thực hiện sau.
Tuy nhiên, để phát huy vai trò tích cực của sự bảo
lãnh trong việc bảo đảm quyền lợi cho trái chủ là các ngân hàng, pháp
luật cũng cho phép các bên của hợp đồng bảo lãnh được quyền cam kết về
tính liên đới của nghĩa vụ bảo lãnh đối với nghĩa vụ được bảo lãnh.
Nghĩa là, tình trạng liên đới giữa nghĩa vụ bảo lãnh với nghĩa vụ được
bảo lãnh chỉ tồn tại khi chính các bên đã ghi rõ trong văn bản hợp đồng
bảo lãnh về tình trạng này. Với điều khoản cam kết về tính liên đới, bên
cho vay có quyền yêu cầu đối với bất kì ai trong số người vay và người
bảo lãnh phải trả toàn bộ món nợ vào ngày hợp đồng tín dụng đáo hạn. Nếu
trong hợp đồng bảo lãnh không có điều khoản nào nói rõ về sự liên đới
nghĩa vụ thì về nguyên tắc, trái chủ trong hợp đồng tín dụng (bên cho
vay) chỉ có thể yêu cầu bên vay phải thực hiện nghĩa vụ của họ trước,
nếu bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của họ
thì bên cho vay mới thực hiện quyền yêu cầu đối với người bảo lãnh.
Theo ý kiến của chúng tôi, việc xác định tình trạng
liên đới giữa hai loại nghĩa vụ này theo hướng trên đây sẽ đáp ứng được
hai yêu cầu cơ bản:
- Một là,
không đồng hoá tình trạng pháp lí của người bảo lãnh với tình trạng
pháp lí của người được bảo lãnh mà vốn dĩ hai loại chủ thể này có thân
phận pháp lí hoàn toàn khác nhau trong mối quan hệ với trái chủ là bên
cho vay trong hợp đồng tín dụng. Thật vậy, nếu người được bảo lãnh – bên
đi vay có vị trí là con nợ của bên cho vay thì người bảo lãnh không
phải là người thiếu nợ của bên cho vay (ngân hàng) mà chỉ đơn thuần là
người cam kết sẽ dùng tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ cho người vay
trong hợp đồng tín dụng.
Việc không đồng hoá thân phận pháp lí của người vay
với người bảo lãnh trong pháp luật thực định không những có tác dụng
củng cố nhận thức lí luận khoa học về bản chất pháp lí của sự bảo lãnh
cũng như nguyên tắc tự định đoạt trong chế định bảo lãnh mà còn góp phần
định hướng, soi sáng cho thực tiễn hoạt động tín dụng của các ngân hàng
trong nền kinh tế -xã hội.
- Hai là, phát huy được
vai trò tích cực của biện pháp bảo lãnh trong việc đảm bảo quyền lợi cho
trái chủ là bên cho vay trong hợp đồng tín dụng mà vẫn đảm bảo tuân thủ
nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của người bảo lãnh trong việc
giao kết hợp đồng bảo lãnh.
4. Tính độc lập tương đối của hợp đồng bảo lãnh và mối liên hệ tương hỗ với hợp đồng tín dụng
Về nguyên tắc, hợp đồng bảo lãnh mặc dù là hợp đồng
phụ và bổ sung cho nội dung của hợp đồng tín dụng (với ý nghĩa như là
hợp đồng chính) nhưng bản thân hợp đồng bảo lãnh cũng có tính độc lập
tương đối trong mối quan hệ với hợp đồng tín dụng đồng thời có tác động
tương hỗ với hợp đồng tín dụng.
Tính độc lập tương đối của hợp đồng bảo lãnh, xét
trong mối quan hệ với hợp đồng tín dụng được thể hiện trên những khía
cạnh sau đây:
- Một là,
về phương diện chủ thể, hợp đồng bảo lãnh được xác lập giữa bên bảo
lãnh với bên nhận bảo lãnh (người này có tư cách là bên cho vay trong
hợp đồng tín dụng). Còn hợp đồng tín dụng lại được xác lập giữa bên cho
vay với bên đi vay (người này có tư cách là bên nhận bảo lãnh trong hợp
đồng bảo lãnh).
Do sự khác nhau về cơ cấu thành phần chủ thể giữa hợp
đồng bảo lãnh với hợp đồng tín dụng (nghĩa là các chủ thể của hợp đồng
bảo lãnh không đồng thời là chủ thể của hợp đồng tín dụng) nên về lí
thuyết có thể suy luận rằng các chủ thể của hợp đồng bảo lãnh hoàn toàn
có khả năng tự mình quyết định việc xác lập hợp đồng bảo lãnh hay không
mà không hề phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia hợp đồng tín
dụng. Điều này thể hiện tính độc lập tương đối của hợp đồng bảo lãnh
trong mối quan hệ với hợp đồng tín dụng.
- Hai là, về phương diện nội dung, các
điều khoản của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng hoàn toàn do bên bảo
lãnh và bên nhận bảo lãnh thoả thuận với nhau trên nguyên tắc bình đẳng
và tự do ý chí. Các điều khoản này chỉ có thể được sửa đổi, bổ sung hay
huỷ bỏ bởi ý chí của chính các bên giao kết hợp đồng bảo lãnh chứ không
thể là chủ thể nào khác.
Ngoài ra, việc pháp luật Việt Nam quy định hợp đồng
bảo lãnh trong quan hệ vay vốn ngân hàng phải được các bên xác lập bằng
hình thức một văn bản riêng rẽ, tách biệt hẳn với văn bản hợp đồng tín
dụng1) cũng phần nào phản ánh tính độc lập tương đối của hợp đồng bảo lãnh trong mối quan hệ với hợp đồng tín dụng.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng mặc dù các điều
khoản của hợp đồng bảo lãnh là do các bên giao kết hợp đồng bảo lãnh tạo
lập ra để chính họ thực hiện nhưng về phương diện hiệu lực pháp lí thì
các điều khoản của hợp đồng này lại phụ thuộc vào hiệu lực pháp lí của
các điều khoản được ghi trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm này thể hiện
mối liên hệ pháp lí giữa hợp đồng bảo lãnh với hợp đồng tín dụng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, mối
liên hệ pháp lí giữa hợp đồng bảo lãnh với hợp đồng tín dụng được thể
hiện ở hai khía cạnh sau đây:
- Nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu thì đương nhiên
làm cho hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu theo. Bởi lẽ, hợp đồng tín dụng
đóng vai trò là hợp đồng chính còn hợp đồng bảo lãnh chỉ có ý nghĩa như
là hợp đồng phụ và do đó hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh đương nhiên phải
phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Quy tắc này trong pháp
luật thực định của Việt Nam không có ngoại lệ, nghĩa là nếu người bảo
lãnh đưa ra được bằng chứng về sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng thì do
đó họ có lí do để thuyết phục tòa án chấp nhận cho họ được giải thoát
khỏi tình trạng là người bảo lãnh.
- Nếu hợp đồng bảo lãnh vô hiệu thì chỉ có thể khiến
cho hợp đồng tín dụng bị vô hiệu theo khi các bên trong hợp đồng tín
dụng có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định rằng sự bảo lãnh là điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng.
Tuy nhiên, theo ý kiến của chúng tôi, quy tắc này vẫn
có ngoại lệ thể hiện ở chỗ trong trường hợp các bên tham gia hợp đồng
tín dụng có thoả thuận coi sự bảo lãnh là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng tín dụng nhưng nếu có bằng chứng chứng minh rằng bên cho vay đã
biết trước sự vô hiệu của hợp đồng bảo lãnh mà vẫn kí kết hợp đồng tín
dụng với bên vay thì hợp đồng tín dụng không vì thế mà bị coi là vô
hiệu.
Ví dụ: Ngày 25/3/2000,
Ngân hàng A kí hợp đồng tín dụng cho doanh nghiệp B vay tiền, với điều
kiện doanh nghiệp B phải có sự bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba.
Để vay được tiền của Ngân hàng A, doanh nghiệp B yêu cầu chi nhánh Ngân
hàng C tại địa phương nơi doanh nghiệp B đóng trụ sở đứng ra bảo lãnh và
được chi nhánh ngân hàng này chấp nhận bằng giấy bảo lãnh có chữ kí của
người đại diện chi nhánh Ngân hàng C là ông trưởng phòng tín dụng
(ngoài giấy bảo lãnh này, không hề có bất cứ giấy tờ nào thể hiện sự uỷ
quyền hợp lệ được gửi kèm theo). Ngân hàng A đã kí hợp đồng tín dụng cho
doanh nghiệp B vay tiền với tình trạng giấy bảo lãnh như trên.
Với tình huống này, theo ý kiến của chúng tôi, cần
phải cho rằng hợp đồng bảo lãnh vô hiệu vì người kí hợp đồng bảo lãnh
không có thẩm quyền đại diện cho Ngân hàng C, tuy nhiên hợp đồng tín
dụng giữa Ngân hàng A và doanh nghiệp B không vì thế mà vô hiệu, bởi lẽ,
trong trường hợp này Ngân hàng A đã có khả năng biết trước sự vô hiệu
của hợp đồng bảo lãnh mà vẫn đồng ý cho vay đối với doang nghiệp B thì
điều kiện để cho vay (phải có sự bảo lãnh của người thứ ba) do ngân hàng
này đưa ra sẽ mặc nhiên bị coi là huỷ bỏ bởi chính họ. Do đó, hợp đồng
tín dụng trong trường hợp này vẫn có hiệu lực và trở thành hợp đồng tín
dụng không có bảo đảm bằng tài sản.
5. Vấn đề thời hạn sử dụng vốn vay và thời hạn bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ tiền vay trong hợp đồng tín dụng
Trên phương diện khoa học pháp lí ngân hàng, cần phải
thừa nhận rằng khái niệm thời hạn sử dụng vốn vay và khái niệm thời hạn
bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ tiền vay là hoàn toàn khác nhau nhưng có mối
liên hệ với nhau.
Nếu thời hạn sử dụng vốn vay là khoảng thời gian do
các bên thoả thuận, theo đó bên vay có quyền chiếm hữu và khai thác giá
trị sử dụng của tài sản vay (vốn vay bằng tiền) vào mục đích đã được ghi
trong hợp đồng tín dụng thì thời hạn bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ tiền vay
lại được hiểu là khoảng thời gian theo đó người bảo lãnh cam kết sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh (bên vay) theo điều kiện đã
được ghi trong hợp đồng bảo lãnh.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là thời hạn sử dụng
vốn vay có đồng nghĩa với thời hạn có hiệu lực của hợp đồng vay (hợp
đồng tín dụng) hay không và thời hạn bảo lãnh có đồng nghĩa với thời hạn
có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh?
Theo ý kiến của chúng tôi, về thời hạn sử dụng vốn
vay, cần phải thấy rằng khi kết thúc thời hạn này thì quyền và nghĩa vụ
pháp lí của các bên trong hợp đồng tín dụng chưa thực hiện xong, do đó
hợp đồng tín dụng chưa thể coi là chấm dứt hiệu lực vào thời điểm thời
hạn sử dụng vốn vay kết thúc. Còn về thời hạn bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ
tiền vay thì lại khác, cần phải hiểu rằng mục đích của bảo lãnh tiền vay
là vì quyền lợi của chủ nợ (bên cho vay) nên thời hạn bảo lãnh phải là
khoảng thời gian tồn tại nghĩa vụ được bảo lãnh (điều này đúng cả trong
trường hợp hợp đồng tín dụng có hiệu lực trước và hợp đồng bảo lãnh có
hiệu lực sau). Chừng nào nghĩa vụ được bảo lãnh còn tồn tại thì chừng đó
thời hạn bảo lãnh chưa thể coi là kết thúc. Như vậy, nếu thời hạn sử
dụng vốn vay hoàn toàn do các bên thoả thuận và hoàn toàn có thể ấn định
trước được tại thời điểm kí kết hợp đồng tín dụng thì thời hạn bảo lãnh
nghĩa vụ trả nợ tiền vay, mặc dù cũng do các bên thoả thuận nhưng thời
hạn này không thể nào ấn định trước được, do các bên không thể biết
trước khi nào thì nghĩa vụ trả nợ tiền vay sẽ được thực hiện xong bởi
người vay hay người bảo lãnh. Điều này cho thấy rằng trong thực tiễn
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng có điều kiện bảo lãnh, người bảo
lãnh không thể dựa vào lí do thời hạn sử dụng vốn vay đã kết thúc và từ
đó suy luận rằng thời hạn bảo lãnh cũng kết thúc để từ chối nghĩa vụ
trả nợ thay với tư cách người bảo lãnh. Rõ ràng, khoảng thời gian sử
dụng vốn vay và khoảng thời gian bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ tiền vay
thường có khoảng cách khá xa và rất khó ước định trước.
Tóm lại, với sự phân tích trên đây về các khía cạnh
pháp lí của giao dịch bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân
hàng, có thể nhận xét rằng bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn
ngân hàng là loại hình giao dịch rất phức tạp và đa dạng trong thực tiễn
hoạt động tín dụng. Chỉ khi nào nhận thức đúng bản chất và các đặc
trưng pháp lí của loại hình giao dịch bảo đảm đặc biệt này thì các luật
sư, thẩm phán hay những người hành nghề tư vấn pháp luật mới có thể đưa
ra được những phương án, đường lối giải quyết thoả đáng các vụ kiện về
hợp đồng tín dụng có điều kiện bảo lãnh bằng tài sản./.
.Xem: Điểm 6, Thông tư số
06/2000/TT-NHNN1 ngày 4/4/2000 của Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền
vay của các tổ chức tín dụng.
Các bài viết cùng tác giả: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/?s=%22NGUY%E1%BB%84N+V%C4%82N+TUY%E1%BA%BEN%22
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 6/2000
0 comments:
Post a Comment