TS. LÊ VŨ NAM – Chủ nhiệm Ngành Luật Tài chính-Ngân hàng-Chứng khoán Khoa Kinh tế, ĐHQG TP. HCM
Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ đâu?
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn biến
hết sức phức tạp với sức công phá nặng nề, là nổi ám ảnh đối với nền
kinh tế của nhiều nước. Việc ngăn chặn sự tàn phá khủng khiếp của cơn
bão Tsunami tài chính này không còn nằm trong phạm vi khả năng của một
quốc gia mà trở thành trách nhiệm và sự nỗ lực chung của tất cả các
nước, trước hết là các nước có nền kinh tế lớn. Tuy nhiên, đối với mỗi
quốc gia, tùy theo đặc thù của nền kinh tế như mức độ hội nhập và trình
độ phát triển mà có thể có những giải pháp riêng. Trong đó, các giải
pháp liên quan đến hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán (TTCK) –
vốn là tâm điểm của cuộc khủng hoảng là rất quan trọng. Vì vậy, việc
tiến hành nghiên cứu, khảo sát toàn diện những nguyên nhân, diễn biến và
mức độ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đến hệ thống ngân hàng
và TTCK Việt Nam sẽ giúp hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa ra
các giải pháp phát huy tối đa tác dụng.
Các yếu tố kinh tế
Nguyên nhân xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu là đề tài đang được tranh cãi và mổ xẻ. Một trong những tác nhân
chính gây nên tình trạng khủng hoảng hiện nay là các ngân hàng thương
mại (NHTM) và các tổ chức tài chính Mỹ thông qua hoạt động cho vay dưới
tiêu chuẩn và nghiệp vụ chứng khoán hoá mà nhiều chuyên gia gọi là “Cỗ
máy đầu tư cấu trúc” (Structured Investment Vehicle – SIV)[1]. Đây có
thể được xem là mô hình chứng khoán hoá bất động sản kiểu Mỹ được hình
thành từ những năm 1980. Phương thức kinh doanh của các SIV là huy động
vốn ngắn hạn thông qua việc phát hành thương phiếu (commercial paper)
với lãi suất thấp để đầu tư vào các loại chứng khoán được đảm bảo bằng
tài sản (asset-backed securities), đa số trường hợp là bất động sản với
lãi suất cao. Mô hình và diễn biến của hoạt động chứng khoán hoá bất
động sản có thể khái quát như sau:
Vào đầu năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi
trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ lãi suất cơ bản,
dẫn đến việc các ngân hàng thương mại cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua
bất động sản. Còn nhớ, vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là
trên 6%/năm nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm để kích
thích TTCK và hoạt động đầu tư nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, cho
đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%/năm. Trong khi đó, Chính phủ Mỹ lúc bấy
giờ lại có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo được
vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông
qua hai công ty tài chính (CTTC) được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie
Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động
sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các NHTM cho người nghèo mà
không cần chứng minh thu nhập còn gọi là cho vay dưới chuẩn (subprime),
biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế
chấp (mortgage-backed securities – MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư
trên TTCK, chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức lớn như Bear Stearns và
Merrill Lynch. Khi đã chứng khoá hoá các khoản cho vay bất động sản, hay
nói cách khác là đã hình thành một sự liên thông mật thiết với TTCK thì
thị trường bất động sản (TTBĐS) không còn là sân chơi duy nhất của các
NHTM hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa mà đã có
sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư và đầu cơ trên TTCK vốn có khả
năng tài chính rất dồi dào. Về bản chất, MBS là một công cụ phái sinh từ
bất động sản nên việc phát hành, giao dịch và bảo hiểm MBS hết sức
thông thoáng và Chính phủ Mỹ dường như không thể kiểm soát nổi. Do có
thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành
MBS, các NHTM đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả
năng trả nợ của người vay. Vòng xoáy của thị trường đã đi quá xa, đặc
biệt là “bong bóng” bất động sản bắt đầu “xì hơi” thì điều gì phải đến
đã đến…Theo Giáo sư Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Tokyo) và Phó Giáo sư Trần Lê Anh (Đại học Lasell, Boston) thì, tính chất của công
cụ đầu tư phái sinh MBS có thể mô tả đơn giản như sau: Một công ty tài
chính (Fannie Mae hay Lehman Brothers chẳng hạn), bỏ tiền ra mua lại các
khoản cho vay thế chấp từ các NHTM, tập trung chúng thành từng loại
khác nhau, rồi phát hành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư. Ví dụ,
Fannie Mae mua 1.000 khoản vay thế chấp với các đặc điểm giống nhau với
giá gốc là 200.000 USD cho mỗi khoản vay. Khi tập trung lại thì tổng trị
giá các khoản vay này sẽ là 200.000.000 USD. Fannie Mae có thể biến
khoản này thành 100.000 MBS, trị giá 2.000 USD một phần và bán lại cho
các nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư mua 10 MBS thì sẽ trả 20.000 USD. Sau khi
mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc
được chuyển đến hằng tháng từ các người vay tiền (thông qua một công ty
dịch vụ trung gian) trong một khoản thời gian nhất định nào đó. Sau khi
đáo hạn, thì tổng số tiền mà nhà đầu tư nhận được sẽ là trên 20.000 USD
(tiền vốn gốc bỏ ra đầu tư cộng với tiền lãi hằng năm). Các MBS dựa trên
các khoản vay có tính chất rủi ro cao hơn thì tất nhiên sẽ đem lại lời
nhiều hơn cho các nhà đầu tư. Vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại
MBS cho nên các công ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG,
cũng nhảy vào để bán bảo hiểm cho các nhà đầu tư MBS. Các sản phẩm bảo
hiểm này được gọi là credit default swap (CDS), với mục đích bảo đảm cho
các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những người vay tiền mua nhà
không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường. Sự việc
này đã tạo nên một loạt chân rết mới, kéo thêm các thành phần khác tham
gia cuộc chơi, bởi vì bán bảo hiểm loại này trong lúc thị trường bất
động sản đang phất lên và ít người vỡ nợ thì rất có lời [2].
Như vậy, nhìn vào thực tế thì các NHTM đã huy động
vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn vào một lĩnh vực khá nhạy cảm là bất
động sản, mặc dù để đảm bảo khả năng thu hồi nợ họ đã bán các khoản cho
vay này cho các tổ chức tài chính và đã để lại cho nền kinh tế, thị
trường tài chính rủi ro rất lớn. Đó là rủi ro vỡ nợ khi giá của các tài
sản dài hạn là bất động sản xuống thấp hơn giá trị của các khoản nợ ngắn
hạn và rủi ro thanh khoản do việc đi vay ngắn hạn nhưng lại cho vay dài
hạn. Rủi ro này sẽ tăng lên gấp bội trong điều kiện thiếu sự kiểm soát
và giám sát của Chính phủ.
Yếu tố pháp lý
Chính vì huy động vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn
nhằm chạy theo lợi nhuận và bỏ qua các yếu tố kiểm soát rủi ro mà đã dẫn
đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tồi tệ nhất trong lịch sử thế
giới vào những năm 1929-1933 của thế kỷ trước. Nguyên nhân của cuộc
khủng hoảng lần đó là không có sự tách bạch giữa hoạt động kinh doanh
tiền tệ và hoạt động kinh doanh chứng khoán của của các NHTM. Hay nói
khác đi, việc không có sự tách bạch giữa chức năng NHTM và ngân hàng đầu
tư (NHĐT) trong cùng một ngân hàng đã tạo ra kẽ hở nguy hiểm trong Luật
ngân hàng Mỹ lúc bấy giờ . Lợi dụng kẽ hở này, các NHTM sử sụng tiền
huy động ngắn hạn để đầu tư vào chứng khoán. Khi TTCK phát triển nóng đã
mang lại lợi nhuận khổng lồ cho các ngân hàng này và đẩy giá chứng
khoán vượt xa giá trị thực, tạo nguy cơ “bong bóng”. Khi “bong bóng”
chứng khoán “xì hơi”, giá chứng khoán “tuột dốc không phanh” các ngân
hàng không bán được chứng khoán để thanh toán các khoản vay đến hạn hoặc
để đáp ứng nhu cầu rút tiền trước thời hạn của người gửi tiền thì cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ đã thực sự nổ ra. Bên cạnh đó, trước sự
sụt giảm liên tục của giá chứng khoán, giới đầu cơ giá xuống “Bear” đã
chớp thời cơ thực hiện bán khống bằng cách vay những cổ phiếu của các
tập đoàn, ngân hàng lớn ồ ạt bán ra tạo nên áp lực giảm giá không gì cứu
vãn nổi. Sau khi giá chứng khoán giảm đến một mức nào đó, giới đầu cơ
sẽ mua và trả lại nơi đã cho vay cộng thêm một ít phí, còn lại sẽ được
hưởng.
Trong bối cảnh đó, để cứu nền kinh tế, Quốc hội Mỹ
ban hành Đạo luật ngân hàng (Glass-Steagal Act) năm 1933, sau khi Tổng
thống Franklin Roosevelt nhậm chức. Đạo luật này đã tách bạch rõ ràng
giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của NHĐT. Theo đó, NHTM chỉ được
hoạt động trong lĩnh vực cho vay vào các hoạt động kinh doanh truyền
thống, ít rủi ro nhất trên cơ sở đảm bảo tài sản của người vay. NHTM trả
lãi suất tiền gửi là X% thì cho vay lại chỉ ở mức X + 2 (hoặc 3%) mà
thôi để đảm bảo tính an toàn và giữ vững niềm tin của người dân đã gửi
tiền tiết kiệm. Các NHTM cũng bị cấm thực hiện bảo lãnh phát hành chứng
khoán công ty (trừ trái phiếu Chính phủ). Chỉ những công ty môi giới và
tự doanh chứng khoán, các NHĐT mới được thực hiện các dịch vụ liên quan
đến chứng khoán công ty. Điều kiện và chế độ cấp phép đối với hoạt động
của các công ty môi giới chứng khoán bị siết chặt[3]. Trong khi đó, hoạt
động của NHĐT là những hoạt động kinh doanh với độ rủi ro cao nên các
nhà đầu tư vào các ngân hàng này phải được biết như vậy và phải chấp
nhận rủi ro. Sự tách biệt giữa hoạt động NHTM và NHĐT là để làm rạch ròi
mức độ rủi ro, tránh sự mập mờ dễ gây ra sự ngộ nhận cho người dân khi
gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Sự tách biệt này cũng là để minh bạch
hóa các hoạt động ngân hàng vì đó là nền tảng của cả một hệ thống ngân
hàng ổn định, tạo nên sức mạnh cho hệ thống tài chính và kinh tế phát
triển bền vững. Nhiều chuyên gia cho rằng, Đạo luật Glass-Steagal đã
giúp cho kinh tế, xã hội Mỹ phát triển mạnh trong suốt 50 năm và trở
thành một mô hình tài chính ngân hàng mẫu mực cho cả thế giới[4]. Đặc
biệt, Đạo luật trên là cơ sở pháp lý quan trọng của quá trình chuyển đổi
mô hình ngân hàng đa năng sang mô hình ngân hàng chuyên doanh tại Mỹ.
Điển hình là việc ngân hàng đa năng Morgan D.P phải tách ra thành 2 ngân
hàng mới: ngân hàng thương mại Morgan Guarantee và ngân hàng đầu tư
Morgan Stanley.[5] Đầu những năm 1980, Tổng thống Reagan chủ trương phát
triển kinh tế thị trường theo hướng tự do hoá, đồng thời cho phép các
NHTM nhận tiền gửi tiết kiệm được mở rộng các hoạt động cho vay vào
TTBĐS. Hệ quả là chỉ vài năm sau đã dẫn đến cuôc khủng hoảng ngân hàng
đầu tiên và Chính phủ Mỹ phải tốn hơn 300 tỉ USD để cứu nguy. Đến thời
Tổng thống Clinton nắm quyền trong thập niên 1990, Ông đã thành công
trong việc thực thi các chính sách kinh tế, mang lại một thời kỳ phát
triển khá ổn định của nước Mỹ. Tuy nhiên, trước khi kết thúc nhiệm kỳ
của mình, Tổng Thống Clinton dưới sự vận động của giới tài phiệt đã ký
đạo luật Gramm-Leach-Bliley thay thế Đạo Luật Glass-Steagal. Theo đó,
các NHTM lại được phép đầu tư vào các lĩnh vực bị cấm trước đây như
chứng khoán, bất động sản…
Những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán Việt Nam
Những tác động đến hệ thống ngân hàng
Từ việc phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu xuất phát từ nước Mỹ nêu trên, chúng ta có thể khẳng
định là cuộc khủng hoảng này sẽ không có tác động đáng kể đến hệ thống
ngân hàng Việt Nam, bởi lẽ:
Thứ nhất, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng với nền kinh tế và hệ
thống ngân hàng Mỹ và thế giới chưa sâu. Các ngân hàng Việt Nam hiện
nay chủ yếu làm cầu nối cung cấp dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và bao
thanh toán cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, lượng vốn
của các ngân hàng Việt Nam vay trên thị trường quốc tế là không lớn nên
có thể loại trừ khả năng xuất hiện hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi ro
về thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, các ngân hàng và các tổ chức tài
chính Việt Nam không sở hữu các MBS của Mỹ, do vậy không phải gánh chịu
những khoản lỗ phát sinh do công cụ này giảm giá. Mặt khác, cấu trúc của
hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá đơn giản, các sản phẩm và dịch vụ
ngân hàng chưa phát triển, chưa có sự liên thông ở mức tinh vi giữa
TTBĐS và TTCK thông qua các công cụ phái sinh tương tự như MBS của Mỹ.
Các ngân hàng Việt Nam đầu tư vào bất động sản chủ yếu thông qua hình
thức trực tiếp là cho vay có đảm bảo bằng tài sản hoặc bằng chính bất
động sản hình thành từ vốn vay nên khả năng tạo hiệu ứng dây chuyền kiểu
Mỹ khi bất động sản giảm giá là rất khó xảy ra.
Tuy nhiên, theo tôi, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt
Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính đang
diễn ra nhưng không phải là không có vấn đề. Những vấn đề mà hệ thống
ngân hàng gặp phải chủ yếu phát sinh từ những yếu tố nội tại.
Trước hết, là vấn đề mô hình của hệ thống ngân
hàng. Theo Khoản 2, Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội
ban hành năm 1997 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004 thì các loại hình
ngân hàng ở Việt Nam bao gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các
loại hình ngân hàng khác. Nhưng dưới gốc độ lập pháp thì cho đến nay,
chúng ta vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng về chức năng của từng loại
ngân hàng. Đặc biệt, chưa có một văn bản pháp quy nào được ban hành để
điều chỉnh hoạt động của ngân hàng phát triển và NHĐT – là những hoạt
động kinh doanh ngân hàng có rủi ro cao nhất. Chính sự mập mờ này đã tạo
điều kiện cho các NHTM, các CTTC “lấn sân”. Và trên thực tế, nhiều NHTM
và các CTTC đã “không ngần ngại” đầu tư vào bất động sản và chứng khoán
đã mang lại không ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào
việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát thời gian qua.
Tiếp theo, là sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng
và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đặc biệt là các CTTC. Cho đến
thời điểm hiện tại, chúng ta đã có trên 80 ngân hàng thương mại[6] và
trên 20 công ty tài chính. Phần lớn các CTTC đều có nguồn góc vốn góp từ
các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn. Với vai trò tạo
vốn và điều hoà vốn giữa các thành viên trong tập đoàn, tổng công ty,
cho nên CTTC dễ dàng bỏ qua những chuẩn mực cần thiết của hoạt động tín
dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành viên, các dự án của tập đoàn
và tổng công ty. Điều này không những làm cho rủi ro tín dụng tăng lên
mà còn làm tăng nguy cơ “hiệu ứng dây chuyền” khi thị trường tiền tệ
hoặc lĩnh vực kinh doanh chính của tập đoàn, tổng công ty có biến động
mạnh[7]. Việc có quá nhiều ngân hàng (trong đó, có khoản 25% ngân hàng
có hiệu quả kinh doanh hạn chế) và các CTTC sẽ dẫn đến hai nguy cơ lớn
là khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh ổn định và khả năng quản
trị ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia
tăng do tăng trưởng tín dụng khá cao cũng đặt hệ thống ngân hàng trước
những thách thức không nhỏ. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN),
tổng dư nợ tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản hiện nay khoảng
115.500 tỷ đồng, chiếm 9,15% trên tổng dư nợ toàn hệ thống. Riêng năm
2007, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm
2007 là 53% – một con số khá cao cộng với khoảng 50% các khoảng dư nợ
được thế chấp bằng bất động sản sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong những
tháng cuối năm 2008 khi các khoản cho vay vào bất động sản trước đây lúc
thị trường này còn hấp dẫn sẽ đáo hạn. Trong tình hình TTBĐS vẫn chưa
có dấu hiệu khởi sắc thì việc các ngân hàng phải đối diện với khoản lỗ
lớn là khó tránh khỏi. Tại Đại hội đồng cổ đông bất thường của Ngân hàng
Eximbank đã công bố nợ quá hạn của ngân hàng này là 1.361 tỷ đồng,
chiếm 6,09% tổng dư nợ, trong đó nợ xấu là 619 tỷ đồng và khoản nợ có
khả năng bị mất là 200 tỷ đồng. Theo lãnh đạo Eximbank, nợ xấu của ngân
hàng này chủ yếu là các khoản cho vay bất động sản. Hiện nay, dư nợ cho
vay bất động sản của Eximbank là 4.000 tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng dư nợ
của ngân hàng[8].
Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ
thống ngân hàng vẫn đang còn tiềm ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt
tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát của Chính phủ đã phát
huy tác dụng. Lãi suất cơ bản qua bốn đợt cắt giảm trong một thời gian
ngắn đã được hạ xuống còn 10%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được giảm
xuống đáng kể đi kèm theo việc tăng lãi suất trên tỷ lệ này, lãi suất
cho vay trên thị trường liên ngân hàng và chiết khấu giấy tờ có cũng
giảm khá mạnh. Song song đó, NHNN đã mua lại tín phiếu bắt buộc phát
hành cho các ngân hàng trước thời gian đáo hạn trị giá 20,3 ngàn tỷ
đồng. Những động thái trên là dấu hiệu “nới lỏng chính sách tiền tệ” một
cách linh hoạt của Chính phủ nhằm tăng tính thanh khoản cho hệ thống
ngân hàng, tạo điều kiện để ngân hàng hạ lãi suất cho vay để các doanh
nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn. Qua đó, kích thích sản xuất chống lại
nguy cơ giảm phát và duy trì mức tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng khi,
lượng tiền mặt trong hệ thống tăng lên và các ngân hàng đã giảm đáng kể
lãi suất cho vay tương đương với mức cuối năm 2007 thì các doanh nghiệp
lại tỏ ra không mấy mặn mà. Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do ảnh
hưởng của đợt lạm phát trong nước vừa qua và của cuộc khủng khoảng tài
chính toàn cầu đang diễn ra đã làm sức mua trong nước và trên thị trường
các nước vốn là nơi tiêu thụ truyền thống sản phẩm xuất khẩu của các
doanh nghiệp Việt Nam giảm mạnh. Như vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam
lại đối diện với một thách thức mới. Đó là tìm đầu ra cho những đồng vốn
của mình. Trong điều kiện TTBĐS “đóng băng” và TTCK liên tục tuột dốc
thì rõ ràng đây thật sự là một bài toán khó.
Những tác động đến thị trường chứng khoán
Các nghiên cứu gần đây cho thấy, cơn bão tài chính
thế giới chưa có những tác động lớn trực tiếp đến nền kinh tế nói chung
và TTCK Việt Nam nói riêng. Cơ sở của những kết luận trên là tính liên
thông và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế và thị trường
tài chính thế giới chưa cao. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách thấu đáo
có thể thấy rằng mặc dù không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng TTCK Việt
Nam cũng đã chịu sự tác động nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu. Sự tác động này biểu hiện trên các phương diện sau đây:
Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa
nhanh chóng đã tác động đến các quốc gia vốn là thị trường xuất khẩu
hàng hoá của nhiều doanh nghiệp niêm yết như Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật
Bản, Hàn Quốc…Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị trường trên
giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi
nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh
nghiệp này vốn đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi.
Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các
nhà đầu tư nước ngoài bán ròng cổ phiếu, trái phiếu. Tính từ đầu tháng
8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước ngoài đã liên tục bán
ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và khoảng 13,5 ngàn tỷ
đồng đối với trái phiếu[9]. Với giá trị bán ra khổng lồ này đã góp phần
không nhỏ vào sự sụt giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời gian
qua. Trước đó, nhiều ý kiến đã “trấn an” các nhà đầu tư là sẽ không có
chuyện các nhà đầu tư ngoại rút vốn vì phần lớn các quỹ đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam là các quỹ đóng. Tôi cho rằng, ý kiến trên là không
thuyết phục. Vì xét về bản chất thì các quỹ đóng không mua lại chứng chỉ
đã phát hành cho nhà đầu tư nhưng họ hoàn toàn có thể thực hiện tái cấu
trúc danh mục đầu tư của mình, trong đó có việc bán chứng khoán ở thời
điểm này để mua vào thời điểm khác hoặc bán ở thị trường này để đầu tư
vào thị trường khác hoặc đầu tư vào thị trường ngoại hối. Thực tế cho
thấy, đồng nội tệ của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi lạm phát đã
mất giá so với đồng USD vài chục phần trăm trong khi sự giảm giá của
đồng Việt Nam so với đồng USD và các ngoại tệ mạnh khác là không đáng
kể. Khả năng nhà đầu tư nước ngoài đã nhận định rằng đồng Việt Nam sẽ
tiếp tục mất giá cũng như các đồng tiền khác nên đã bán chứng khoán để
mua ngoại tệ nhằm kiếm lời là rất có thể. Nếu kịch bản diễn ra đúng như
họ dự đoán thì khi đó họ sẽ bán ngoại tệ để tiếp tục đầu tư vào chứng
khoán.
Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đến TTCK Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra,
yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở quốc gia nào cũng có, đặc biệt là các quốc
gia có thị trường này mới hình thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK
Việt Nam bao phen lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng
khoán lên thì mua không được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh
bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ có hiện tượng này là do phần nhiều các
nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị kiến thức và bản lĩnh cũng như kinh
nghiệm cần thiết để tham gia mua bán chứng khoán, mặt khác môi trường
thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến với tất cả các nhà đầu
tư cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó khăn
trong việc hoạch định chính sách và điều tiết thị trường của cơ quan
quản lý và trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hành vi làm giá, giao dịch
nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm lý mua bán theo đám
đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm phát. Mỗi khi các
thông tin về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản hoặc chỉ
số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức thời từ TTCK.
Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là nhân tố dẫn
dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ làm cho giá
chứng khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008 đến nay,
rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được phát đi như lãi suất cơ bản
và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm đáng kể đã không
nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị trường và chỉ số chứng
khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm. Điều đó cho
thấy nhà đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các thông tin tốt từ
nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình
giao dịch ở các TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu tư
tương tự. Thời gian gần đây, diễn biến của các chỉ số chứng khoán Việt
Nam luôn cùng chiều với chỉ số của các thị trường trên. Vậy là cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các nhà
đầu tư Việt Nam: từ đầu tư theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong nước sang
đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài nước”[10]. Tâm lý này trở thành một
rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy TTCK. Nhiều
chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có biến động mạnh ở
một hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ liên thông lớn
hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngoài
quy luật đó[11].
Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò
là “phong vũ biểu” phản ánh “sức khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh
khoản của thị trường. Đó là khi, giá chứng khoán xuống quá thấp thì
người bán lại không muốn bán nhưng người mua cũng sẽ không dám mua do
vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng
niềm tin” thị trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm
hơn nhiều: khủng hoảng về tính thanh khoản.
Thứ năm, mặc dù không phải phát sinh mới đây
do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng TTCK Việt Nam vẫn còn tồn
tại rất nhiều những vấn đề khác mà trong phạm vi bài viết này chúng tôi
chưa có điều kiện đề cập đến. Cụ thể như các vấn đề về khung pháp lý,
vai trò quản lý, giám sát của Nhà nước, tính minh bạch của thị trường…
Giải pháp nào cho hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán Việt Nam?
Như đã phân tích ở trên, mặc dù không chịu ảnh hưởng
trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng Việt Nam ít nhiều
cũng đã chịu sự tác động nhất định. Sự tác động rõ nét nhất là đối với
nền kinh tế với hai đầu tàu quan trọng là hệ thống ngân hàng và TTCK.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
nguyên nhân, diễn biến, các giải pháp khắc phục hậu quả của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 nhằm hình thành các giải pháp hoàn
thiện việc quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và hoạt động của
hệ thống ngân hàng, TTCK nói riêng là hết sức hữu ích đối với Việt Nam.
Đối với hệ thống ngân hàng
Tôi cho rằng, hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay
đứng trước ba vấn đề lớn là: mô hình và cấu trúc của hệ thống ngân hàng,
vấn đề kiểm soát rủi ro và tính thanh khoản. Để nâng cao tính hiệu quả
trong hoạt động ngân hàng đồng thời tránh được “vết xe đổ” của hệ thống
ngân hàng Mỹ thì chúng ta cần có những giải pháp kiên quyết và đồng bộ
theo hướng cái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng cho hiệu quả hơn, tăng
cường kiểm soát rủi ro và nâng cao tính thanh khoản của hệ thống ngân
hàng. Cụ thể là:
– Tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản điều chỉnh
hoạt động ngân hàng, bao gồm Luật ngân hàng Nhà nước năm 1997 (sửa đổi,
bổ sung năm 2003) và Luật các tổ chức tín dụng dụng năm 1997 (sửa đổi,
bổ sung năm 2004) và các văn bản dưới luật về ngân hàng. Hai Luật này
mặc dù đã góp phần rất lớn vào việc điều chỉnh hoạt động và sự phát
triển của hệ thống ngân hàng thời gian qua nhưng được ban hành và sửa
đổi khi mức độ hội nhập kinh tế và những thay đổi trong các quan hệ kinh
tế thị trường ở Việt Nam diễn ra chưa mạnh mẽ nay đã bộc lộ những khiếm
khuyết và bất cập nhất định. Các văn bản dưới luật thì được ban hành
khá tản mạn, không tập trung và bất cân xứng, chủ yếu điều chỉnh các
hoạt động của NHTM cổ phần mà chưa có sự quan tâm đúng mức về hoạt động
của các tổ chức tín dụng khác như hoạt động của NHĐT, NHTM Nhà nước, các
tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Vai trò và tính độc lập của NHNN được
quy định trong hai Luật này không cao, chưa đủ để có thể thực hiện chức
quản lý và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt.
NHNN “không có chức năng hoạch định mà chỉ là cơ quan chấp hành trong
việc điều hành chính sách tiền tệ”[12]. Các văn bản dưới luật thường
được ban hành để xử lý vấn đề mang tính chất vụ việc nhiều hơn là những
vấn đề mang tính chất chiến lược. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về
ngân hàng phải được tiến hành theo hướng nâng cao tính độc lập và vai
trò chủ động trong quản lý, điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, mở
rộng thẩm quyền và tăng cường các công cụ kiểm tra, giám sát hoạt động
kinh doanh ngân hàng của NHNN. Song song đó, cần có sự tách bạch rõ ràng
giữa hoạt động của NHTM và NHĐT đồng thời nâng cao điều kiện cấp phép
thành lập và hoạt động của NHTM cổ phần và các CTTC. Các văn bản về ngân
hàng phải đặt nền tảng pháp lý để tạo ra môi trường kinh doanh ngân
hàng minh bạch và nâng cao tính cạnh tranh thông qua việc đẩy mạnh cổ
phần hoá các NHTM Nhà nước và hình thành cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc
sáp nhập, hợp nhất và phá sản ngân hàng.
– Tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt
động ngân hàng. Trước hết, NHNN cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám
sát, thanh tra việc thực hiện các quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng và TCTD theo quy định Luật
các tổ chức tín dụng và Quyết định số 457/2005 ngày 19/4/2005 quy định
cụ thể các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD và các văn bản
khác. Đặc biệt, cần nghiên cứu xây dựng và giám sát chặt chẽ hạn
mức tín dụng đối với các lĩnh vực nhạy cảm như cho vay kinh doanh, đầu
tư chứng khoán, bất động sản…Về lâu dài, NHNN cần xây dựng hệ thống quản
trị rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế theo tiêu chuẩn an toàn vốn của
Basel, rà soát và xây dựng mới các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro…
Về phía Chính phủ và Bộ Tài chính, cần quản lý và kiểm soát nguồn vốn
Nhà nước trong các CTTC Nhà nước, ngăn chặn tình trạng lạm dụng đầu tư
tài chính bằng nguồn Nhà nước của các tổ chức này như là một biện pháp
loại trừ nguyên nhân lạm phát và góp phần lành mạnh hoá thị trường tiền
tệ. Về phía các NHTM, và các tổ chức tín dụng phải nâng cao năng lực
quản lý, điều hành, áp dụng các chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại và
tổ chức tốt hoạt động của bộ phận kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại trụ
sở chính và các chi nhánh.
– Đẩy mạnh các giải pháp nâng cao tính
thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Theo quan điểm của tôi, tính thanh
khoản có vấn đề không những khi các ngân hàng gặp khó khăn về khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn mà ngay cả khi họ gặp khó khăn cho đầu
ra của nguồn vốn của mình. Sau khi các biện pháp thắt chặt tiền tệ của
Chính phủ mang lại hiệu quả, NHNN đã 4 lần giảm lãi suất cơ bản và các
loại lãi suất khác, mua lại 20,3 ngàn tỷ tín phiếu bắt buộc thì hệ thống
ngân hàng đang sở hữu một nguồn vốn khá lớn và lãi suất cho vay đã giảm
xuống 13%/năm (so với 21% ở thời điểm đỉnh cao) nhưng các doanh nghiệp
vẫn chưa mặn mà tiếp cận. Nguyên nhân được xác định là sức mua trong
nước và thế giới giảm do cuộc khủng hoảng tài chính và lạm phát vừa qua.
Chính vì vậy mà Chính phủ đang triển khai 5 giải pháp quan trọng để vực
dậy nền kinh tế thông qua kích cầu tiêu dùng và kích cầu vốn. Việc kích
cầu vốn trở nên hết sức khó khăn khi TTBĐS và TTCK đang đóng băng và
tuột dốc liên tục. Do đó, trước mắt cần tập trung kích cầu vốn đối với
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu và kích cầu tiêu
dùng. Để các giải pháp của Chính phủ sớm phát huy tác dụng, cần nghiên
cứu áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt theo hướng thỏa thuận và dựa vào
mức độ đánh giá rủi ro, hình thành các trung tâm bão lãnh tín dụng và
khuyến khích cơ chế cho vay tín chấp để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có
thể tiếp cận được nguồn vốn. Giải quyết được đầu ra cho nguồn vốn trong
hệ thống ngân hàng hiện nay là điều kiện cần thiết để ngăn chặn nguy cơ
giảm phát đang dần dần lộ diện.
Đối với thị trường chứng khoán
Một khi diễn biến của tình hình giao dịch trên TTCK
đã thoát khỏi sự tác động của các yếu tố nội tại mà đã chuyển sang phụ
thuộc vào những yếu tố từ bên ngoài như các thông tin về diễn biến của
cuộc khủng hoảng tài chính hay sự tăng, giảm của các chỉ số chứng khoán
nước ngoài thì việc dự báo về tình hình thị trường cũng như đề xuất các
giải pháp là hết sức khó khăn. Tuy vậy, từ cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu chúng ta cũng thấy rằng trong thời gian sắp tới các nhà điều
hành và hoạch định chính sách phát triển TTCK Việt Nam sẽ có nhiều việc
cần làm và tập trung vào các vấn đề sau đây:
– Tiếp tục thực thi chiến lược phát triển TTCK Việt
Nam đã được Chính phủ phê chuẩn, trong đó việc liên thông, kết nối với
thị trường các nước là cần thiết, tuy nhiên phải được tiến hành cẩn
trọng, có lộ trình để hạn chế đến mức thấp nhất “các cơn địa chấn” có
thể xảy ra như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Đồng thời,
tăng cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra và xử phạt đủ mạnh nhằm tạo
ra môi trường kinh doanh chứng khoán minh bạch, công bằng và đúng pháp
luật.
– Xây dựng lộ trình hợp lý cho việc áp dụng các công
cụ, sản phẩm mới cho thị trường như bán khống và giao dịch ký quỹ, đặc
biệt là các công cụ phái sinh. Các công cụ phái sinh chỉ nên áp dụng khi
đã hình thành một khung pháp lý đầy đủ để điều chỉnh việc phát hành và
giao dịch các công cụ phức tạp này trên cơ sở nhận thức đầy đủ những yếu
tố tích cực và tiêu cực của nó sau khi trình độ quản lý, điều hành thị
trường đã được nâng lên một bước.
– Cần nghiên cứu và sớm triển khai các công cụ kích
cầu trong đầu tư. Trước hết, Chính phủ nên xem xét khả năng lùi thời
gian thu thuế từ đầu tư chứng khoán vì nguồn thu từ đầu tư chứng khoán
không nhiều[13]nhưng nó sẽ là nguồn động viên tinh thần giúp các thị
trường có thể cải thiện phần nào niêm tin cho các nhà đầu tư, đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, theo tín hiệu thị trường cần sớm đưa
vào áp dụng các giải phải giúp hỗ trợ tính thanh khoản và khuyến khích
đầu tư như lệnh thị trường, cho phép nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản
và được cùng mua, cùng bán một loại chứng khoán trong cùng một ngày giao
dịch, sớm đưa thị trường giao dịch các cổ phiếu chưa niêm yết đi vào
hoạt động…
– Đẩy mạnh và kiên quyết đối với việc tách chức năng
lưu ký tiền của nhà đầu tư từ công ty chứng khoán sang ngân hàng để minh
bạch hoá hoạt động của công ty chứng khoán, gây dựng lòng tin của các
nhà đầu tư. Thường xuyên kiểm tra và giám sát các hoạt động kinh doanh
của công ty chứng khoán, đặc biệt là các hoạt động tiềm ẩn xung đột lợi
ích cao./.
( Bài đăng trên Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với nền kinh tế Việt Nam” do Khoa Kinh tế, ĐQG TP.HCM tổ chức Tháng 12/2008)
[1] Huỳnh Thế Du, Cỗ máy tàn phá hệ thống tài chính toàn cầu . Xem tại: http://www.thesaigontimes.vn/Home/thegioi/hoso/11303/
[2] Trần Văn Thọ, Trần Lê Anh, Loạt bài “Khủng hoảng tài chính Mỹ và những ảnh hưởng” Bài 1: Cuộc khủng hoảng hình thành như thế nào? Xem tại: http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/200842/20081016011937.aspx
[3] Б.Б. Рубцов, Зарубежные Фондовые рынки, Мосва ИНФРА – М 1996, стр: 78 – 79.
[4] Trần Sỹ Chương, Tsunami tài chính Mỹ và bài học cho Việt Nam, xem tại: http://www2.sanotc.com/News/ViewItem.aspx?item=302597
[5] Б.Б. Рубцов, Указанная работа, стр: 112-113
[6] Thành Trung, “Việt Nam có quá nhiều ngân hàng thương mại”, Thời báo kinh tế Sài gòn,số ra ngày 04/12/2008, tr. 12-13.
[7] TS. Lê Vũ Nam, Một số vấn đề pháp lý về tổ chức
và hoạt động của Công ty tài chính, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, Số
11/2008, tr. 12-17.
[8] Thủy Triều, Eximbank công bố nợ xấu là 619 tỷ đồng, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số ra ngày 04/12/2008, tr. 50.
[9] TS. Nguyễn Trọng Nghĩa, Khủng hoảng tài chính phố
Wall: nguyên nhân và mức độ tác động có thể tới Việt Nam, Tạp chí Chứng
khoán Việt Nam, số 11/2008, tr. 44-49.
[10] TS. Lê Vũ Nam, Chứng khoán sẽ thế nào trong “cơn
bão tài chính toàn cầu”?, Báo Sài Gòn Giải Phóng, ra ngày 17/10/2008,
tr. 4.
[11] TS. Nguyễn Trọng Nghĩa, Tài liệu đã dẫn, tr. 44.
[12] TS. Nguyễn Đại Lai, Tính chất cấp bách phải đổi
mới hai Luật về ngân hàng để đáp ứng nhu cầu đổi mới tiếp theo của ngành
ngân hàng Việt Nam trong kỷ nguyên WTO, Hoàn thiện pháp luật ngân
hàng-Những đòi hỏi từ hội nhập kinh tế quốc tế, Trường Đại học Ngân hàng
TP. HCM, NXB Lao động xã hội năm 2007, tr. 15.
[13] Theo tính toán thì tổng số tiền thu thuế dự kiến
từ giao dịch chứng khoán qua 2 sàn Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh
trong 1 năm chỉ tương đương số thuế thu nhập phải nộp của 2 ngân hàng
thương lại loại lớn và chừa bằng 1/3 số tiền nộp ngân sách mỗi năm của
Công ty Bia Sài Gòn. Xem: Hải Lý, Hoãn thuế cho dòng tiền trở lại, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số ra ngày 04/12/2008, tr. 43.
—————————
SOURCE: Hội thảo Khoa học “Tác động của khủng
hoảng tài chính toàn cầu đối với nền kinh tế Việt Nam” do Khoa Kinh tế,
ĐQG TP.HCM tổ chức Tháng 12/2008
CÁM ƠN TS. LÊ VŨ NAM ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT. VIỆC SỬ DỤNG BÀI VIẾT VÀO MỤC ĐÍCH THƯƠNG MẠI CẦN ĐƯỢC TÁC GIẢ ĐỒNG Ý
0 comments:
Post a Comment