PGS.TS. LÊ QUỐC LÝ – Vụ trưởng Vụ tài chính – tiền tệ, Bộ kế hoạch và đầu tư
Cuộc khủng hoảng
kinh tế Mỹ đã diễn ra ngày một sâu rộng trong các tháng qua và đã lan
rộng ra khắp thế giới, đã có nhiều tác động không thuận đến các nền kinh
tế, trong đó có nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, mức độ phạm vi ảnh
hưởng chưa thể đánh giá và dự báo chính xác do tình hình khủng hoảng
kinh tế ở Mỹ và thế giới đang tiếp tục diễn biến khó lường. Do vậy,
trong bài báo này, bước đầu chúng tôi xin phân tích, đánh giá và đề xuất
một số giải pháp ngăn chặn tác động khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới
đến nền kinh tế nước ta trong thời gian tới.
I. ĐIỂM LƯỢC TÌNH HÌNH KHỦNG HOẢNG KINH TẾ MỸ VÀ THẾ GIỚI TRONG THỜI GIAN QUA
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và thế giới đã có mầm
mống khởi nguồn từ trước ngày 6/8/2007 khi Công ty Thế chấp nhà Mỹ
(American Home Morgage) làm đơn xin phá sản. Tiếp theo sự khởi nguồn này
là nhiều ngân hàng và công ty lâm vào khó khăn và bộc lộ rõ nét là sự
sụp đổ và khó khăn của các ngân hàng và công ty tài chính lớn và nổi
tiếng ở Mỹ (Wachovia, Washington Mutual Inc, Bear Sterns, Fannie Mae,
Fredie Mac, Lehman Brothers, Merrill Lynch, Tâp đoàn bảo hiểm quốc tế Mỹ
(AIG), Goldman Sachs, Morgan Stanley…).
Bên cạnh sự sụp đổ của các tên tuổi lớn, hàng loạt
các tổ chức tài chính khác cũng đã đổ theo với các khoản nợ có liên quan
tới các vụ sụp đổ nói trên và sự giảm mạnh về giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán. Ngày 3/10, với 263 phiếu thuận và 171 phiếu chống Hạ
viện Mỹ đã thông qua kế hoạch 700 tỷ USD nhằm giải cứu ngành tài chính
nước này thoát khỏi khủng hoảng.
Mặc dù đã có rất nhiều biện pháp của Chính phủ Mỹ đã
đưa ra nhưng đến đầu tháng 11 này, các cơ quan của Mỹ đã phải đóng của
thêm một ngân hàng nữa là Freedom Bank đưa tổng số ngân hàng bị giải thể
là 17 ngân hàng. Đến thời điểm hiện nay thì nhiều người dân Mỹ thi nhau
xin phá sản, cụ thể là tháng 10/2008, cá nhân nộp đơn xin phá sản tăng
8% so với tháng trước (108.905 lượt người), tức là mỗi ngày có 4.936 đơn
xin phá sản, tăng 34% so với cùng kỳ năm 2007. Tại một số bang của Mỹ,
tình hình người dân lâm vào phá sản rất cao, như tại bang Nevada, số đơn
xin phá sản trong tháng 10/2008 tăng 70% so với cùng kỳ năm trước, bang
California và Florida là 80% và 62%. Tóm lại nền kinh tế Mỹ hiện nay là
khá trầm trọng và đã lây lan khủng hoảng này sang hầu khắp các nước
trên thế giới.
Các thị trường chứng khoán trên thế giới đồng loạt
sụt giảm mạnh trước diễn biến thị trường tài chính Mỹ. Đặc biệt, ngày
17/9, bất chấp nỗ lực giải cứu AIG, thị trường chứng khoán Mỹ đã có mức
sụt giảm kỷ lục do đợt bán tháo cổ phiếu được coi là tồi tệ nhất kể từ
sau sự kiện 11/9/2001.
Do mức độ trầm trọng và lan rộng của cuộc khủng hoảng
tài chính Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nền kinh tế trên thế giới
đã và đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực và đã có nền kinh
tế lâm vào khủng hoảng mặc dù các nước này đã phối hợp sử dụng một nguồn
lực tài chính lớn chưa từng có (tới hàng nghìn tỷ USD) và gần như tất
cả các biện pháp có thể để hỗ trợ thanh khoản và cứu hệ thống tài chính
khỏi sụp đổ.
Đối với châu Á, khủng hoảng kinh tế đã tràn vào và
Inđônêxia là nước hứng chịu đầu tiên. Tiếp theo là các nền kinh tế ở
châu Á khác cũng đang từng bước bị ảnh hưởng ở mặt này, mặt khác với mức
độ nặng nhẹ khác nhau, thể hiện ở hàng loạt thị trường chứng khoán ở
châu Á bị rơi tự do, nhiều công ty tài chính, ngân hàng khó khăn, thua
lỗ và có nguy cơ phá sản. Nền kinh tế Nhật Bản đang lâm vào khủng hoảng
trong những ngày gần đây: giá chứng khoán giảm mạnh, nhiều ngân hàng,
công ty đã và đang trên bờ vực thẳm. Như vậy, cuộc khủng hoảng này đã
được coi là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Đánh giá ảnh hưởng khủng
hoảng kinh tế Mỹ đến thời điểm hiện nay trên toàn thế giới là rất khó,
nhưng có thể thấy đây là một con số khổng lồ. Mới đó mà nhiều quốc gia
đã phải bơm ra hàng trăm tỷ USD để cứu vãn tình hình và ổn định kinh tế.
Đó là chưa kể đến những thiệt hại tiếp theo từ kinh tế suy giảm, không
tăng trưởng, rối loạn và thất nghiệp đang chờ phía trước. Cho tới thời
điểm hiện tại, tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay
đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài
chính toàn cầu.
Nguyên nhân của khủng hoảng lần này ở Mỹ là do một số
nguyên nhân chính như: (i) Đầu tư bất động sản và tiêu dùng quá lớn;
(ii) Do chính sách tài chính, tiền tệ quá lỏng, nên đã khuyến khích tiêu
dùng và trực tiếp là cho vay dưới chuẩn để đầu tư bất động sản; (iii)
Chứng khoán hoá tràn lan thiếu kiểm soát: các ngân hàng đầu tư ở Mỹ đã
sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để biến các khoản cho
vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản (MBS,
MBO, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường; (iv) Sự quản lý, giám sát
và điều hành của Chính phủ lỏng lẻo trong suốt thời gian dài, đặc biệt
là do chủ thuyết tự do hoá tài chính và thị trường tự do tự điều tiết;
(v) Chủ thuyết tân tự do kinh tế Mỹ dựa vào tiêu dùng tư nhân (gần 70%
GDP) và chi tiêu Chính phủ (13% GPD).
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới đã đặt chính phủ các nước phải đưa ra các biện pháp chống đỡ như: Thứ nhất
là sửa đổi các quy định hiện hành nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi
tiền tại các ngân hàng nhằm ngăn chặn nguy cơ rút tiền hàng loạt của dân
chúng trong thời gian ngắn (tăng mức bảo hiểm tiền gửi, hoặc cam kết
bảo đảm an toàn tiền gửi và chi trả đầy đủ tiền gửi tiết kiệm cho dân
chúng, cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính vay tiền; Thứ hai
là nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách bơm một lượng tiền lớn cho nền
kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng; giảm lãi suất, giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, tăng khả năng thanh khoản; Thứ ba là quốc hữu hoá,
nhà nước mua lại các khoản nợ xấu, mua lại cổ phần chi phối và nắm quyền
điều hành; khuyến khích các ngân hàng, các tổ chức tài chính, doanh
nghiệp mua lại các tổ chức đổ vỡ và phá sản. Tiếp theo là cơ cấu lại các
ngân hàng và hệ thống tài chính trong nước; Thứ tư là cơ cấu
lại quản trị các ngân hàng, tăng cường hệ thống giám sát bảo đảm an
toàn, cơ cấu lại các khoản vay, cắt giảm nhân viên, tiết kiệm chi phí,
chấn chỉnh lại các quy định nội bộ…; Thứ năm là vay tiền của IMF để xử lý khó khăn trong nước…; Thứ sáu là thực hiện một số giải pháp hỗ trợ và kích thích sản xuất hoặc đưa tiền ra để đầu tư vào những dự án hạ tầng lớn…
Như vậy, cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới lần
này đặt chúng ta nhìn nhận lại sự kết hợp hài hoà giữa thị trường tự do
và quản lý của nhà nước. Phải chăng việc tập trung hoá quá cao đã không
thành công thì việc tự do hoá nền kinh tế thái quá cũng không thành
công. Vấn đề không phải là đối lập nhau giữa thị trường tự do với điều
tiết của nhà nước mà cần kết hợp hài hoà. Câu hỏi hiện nay là chính sách
và liều lượng tự do hoá đến đâu thì thành công và bền vững, vai trò
điều tiết của nhà nước cần thiết ở chừng mực nào.
Tình hình kinh tế Mỹ và thế giới từ nay đến cuối năm
2008 và năm 2009 sẽ có nhiều khó khăn, Theo IMF, tăng trưởng kinh tế thế
giới năm 2008 ở mức 2,8% và 2,2% năm 2009; theo HSBC, tăng trưởng kinh
tế Mỹ quý IV năm 2008 là -3,0% và 2009 tăng trưởng Quý I là -0,8%, Quý
II là 1,5%, Quý III là 2,6%, Quý IV là 2,8%, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ sẽ
tăng lên, cuối năm 2008 ở mức 8% và 2009 là 7,8%. Tốc độ tăng tăng xuất
khẩu và nhập khẩu Mỹ sẽ giảm mạnh: cuối năm 2008, xuất khẩu giảm -1,5%,
nhập khẩu giảm -3,8%, đầu năm 2009 xuất khẩu giảm -1,7% và nhập khẩu
giảm – 7,1%.
II. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ĐẾN NƯỚC TA
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới chắc chắn sẽ có
ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế nước ta trên cả góc độ trực tiếp và
gián tiếp, tuy nhiên mức độ không giống như các nước khác và chưa thể
xác định cụ thể, cũng không quá lo, không hoảng hốt, nhưng không chủ
quan mà bình tĩnh để xem xét, xử lý. Mặc dù, đã có nhiều ý kiến và chắc
chắn sẽ còn nhiều ý kiến nữa đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng kinh
tế giới đến nước ta, nhưng nhìn chung có thể nói, nền kinh tế nước ta
đang có chiều hướng chuyển động tốt, trở lại dần với xu thế ổn định, lạm
phát được kiềm chế, tăng trưởng ở mức hợp lý, các cơ chế chính sách
đang từng bước được rà soát phù hợp hơn. Nhìn vào các ngành, lĩnh vực cụ
thể, chúng tôi xin nêu một số ý ban đầu như sau:
- Đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: Mặc dù bị
thiệt hại nặng vì lũ lụt, thiên tai ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung
gây ra hư hỏng nặng về hoa màu, nhưng khả năng vụ mùa vẫn được bảo đảm.
Năm 2009, khả năng sản xuất lương thực thực phẩm cũng ở mức ổn định,
không bị ảnh hưởng lớn của khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới.
- Đối với sản xuất công nghiệp cũng có khó khăn,
nhưng những khó khăn hiện nay là do lạm phát cao đem lại, đặc biệt là
khó khăn trong lĩnh vực xây dựng. Năm 2009, khi giá cả thế giới ở mức
thấp và giá trong nước ổn định, đặc biệt đi theo đó là lãi suất tín dụng
ngân hàng sẽ giảm xuống tương ứng thì các doanh nghiệp sẽ có cơ hội
khôi phục và phát triển sản xuất, ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế
giới cũng sẽ không nhiều vì sức mua trong dân vẫn cao, mức tiêu thụ hàng
hoá trong các tháng vẫn ở trong phạm vi khả quan.
- Đối với dịch vụ, về cơ bản có ảnh hưởng nhưng không
lớn vì khi giá cả giảm xuống thì nhu cầu dịch vụ sẽ tăng lên và người
tiêu dùng sẽ được hưởng thụ nhiều hơn các loại hình dịch vụ. Đối với
dịch vụ tài chính, ngân hàng sẽ tốt hơn khi lãi suất tín dụng ngân hàng
giảm xuống, chi phí dịch vụ ngân hàng ở mức thấp thì nhiều doanh nghiệp
và cá nhân sẽ có điều kiện vay vốn và sử dụng các dịch vụ này nhiều hơn.
- Đối với xuất – nhập khẩu thì có ảnh hưởng trên các
mặt như: do nhập khẩu các nước giảm nên xuất khẩu của ta giảm, hơn nữa
giá cả các mặt hàng giảm nên mặc dù tổng sản lượng hàng xuất khẩu vẫn
tăng nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn giảm. Đó là chưa kể các doanh
nghiệp kinh doanh xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn
trong huy động vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tháng
8/2008, ta xuất khẩu 6,1 tỷ USD, tháng 9/2008 giảm xuống còn 5,3 tỷ
USD. Năm 2009 khả năng xuất khẩu sẽ không tăng cao do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới trên các mặt nêu trên. Đối với nhập khẩu 10
tháng đầu năm 2008 tăng 42,6% và nhập siêu bằng 30,3% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Năm 2009, nhập khẩu sẽ giảm nhưng không nhiều, khả năng nhập
siêu sẽ cao.
- Hệ thống ngân hàng: Có 3 chi nhánh ngân hàng Mỹ
hiện đang hoạt động tại Việt Nam là JP Morgan Chase, Citibank và FENB.
Tuy nhiên chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động ngân hàng của các
chi nhánh này tại Việt Nam. Về hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có một số
tác động gián tiếp, tuy nhiên cũng không đáng kể. Một số tác động có
thể là: diễn biến của tỷ giá và lãi suất USD. Đô la Mỹ đã có diễn biến
phức tạp do tâm lý lo lắng của nhà đầu tư. Khủng hoảng ở Mỹ có thể làm
người dân dự đoán USD sẽ xuống giá nghiêm trọng, và họ có thể rút USD
khỏi ngân hàng, hoặc bán USD để mua VND gửi vào. Tuy nhiên, trong thời
gian vừa qua Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã có một số giải pháp chỉ
đạo, điều hành để ổn định tỷ giá, hạ lãi suất cơ bản để hỗ trợ vốn cho
doanh nghiệp, rà soát và kiểm soát nợ xấu của các ngân hàng thương mại…
- Về tài chính, ngân sách và bảo hiểm có một số tác
động nhẹ như giảm nguồn thu NSNN, hay người dân sẽ giảm các hoạt động
bảo hiểm nhưng những vấn đề này về cơ bản là ổn định.
- Đầu tư nước ngoài vào nước ta: có thể được xem xét ở
trên các góc độ và các mặt như: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta
(FDI); đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán (FII), Viện trợ phát
triển chính thức (ODA), Vay nợ nước ngoài và các nguồn khác.
Đến thời điểm hiện nay, Mỹ đứng thứ 11 trong hơn 80
quốc gia và vùng lãnh thổ cóá hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam
với 419 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 4,1 tỷ USD, các dự án phần
lớn còn ở giai đoạn đầu và phần nhiều đầu tư vào hạ tầng dài hạn (khách
sạn du lịch, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải bưu
điện). 65% đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam là vào lĩnh vực dịch vụ, trong
đó khách sạn du lịch chiếm 52%. Đây là khu vực có thể chịu nhiều ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng cụ
thể còn phụ thuộc vào tốc độ giải ngân của các dự án tại nước ngoài và
tiềm lực, chiến lược đầu tư của từng công ty. Luồng vốn FDI thực hiện
trong 10 tháng đầu năm đạt 9,1 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm
2007. Nhìn chung, các nhà đầu tư đến từ châu Âu và Mỹ chỉ chiếm khoảng
5% trong số 59,3 tỷ USD đăng ký, trong khi các nhà đầu tư châu Á chiếm
khoảng 80% (13% từ Nhật Bản và 67% từ các nước châu Á khác). Tuy nhiên,
khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới không chỉ gây ra khó khăn cho các
nhà đầu tư Mỹ mà còn cho các nhà đầu tư từ các nước khác do sự liên
thông và lệ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế và các nhà đầu tư.
Đối với nguồn vốn FDI đã bắt đầu bị ảnh hưởng nhẹ.
Một số dự án đăng ký mới có xu hướng chững lại, trong tháng 10/2008, chỉ
số 68 dự án đăng ký mới với tổng số vốn đăng ký là 2,02 tỷ USD, thấp
hơn so với các tháng đầu năm (bình quân 1 tháng đầu năm số dự án đăng ký
mới là trên 98 dự án với tổng số vốn trên 6,25 tỷ USD; 9 tháng đầu năm
2008 có 885 dự án đăng ký với tổng số vốn 56,27 tỷ USD). Tháng 10 năm
2008, tổng số vốn thực hiện chỉ đạt 15% so với số vốn đăng ký mới và
tăng thêm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta sẽ sút giảm nhẹ vì
các nước đều khó khăn, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khó khăn
hơn vì chi phí vốn sẽ đắt đỏ hơn. Hơn nữa, nhiều công ty mẹ yêu cầu các
công ty con đầu tư tại nước ta phải giảm đầu tư rút vốn về để tháo gỡ
khó khăn cho công ty mẹ.
Về nguồn vốn ODA, trong tháng 10, giải ngân đạt thấp,
năm 2008 giải ngân không đạt như dự báo 2,3 tỷ USD vì các nguồn vốn
cũng gặp các khó khăn và hạn hẹp khi các nước đang tập trung chống khủng
hoảng tại nước mình. Như vậy, có thể thấy số vốn ODA cam kết và giải
ngân tại Việt Nam trong những năm tới sẽ có xu hướng giảm do nguồn lực
tài chính của các tổ chức tài chính quốc tế và các nước được dành để cân
đối bình ổn thị trường trong từng nước và quốc tế nên sẽ khó khăn hơn
trong tài trợ ODA.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII), chúng ta có thể
thấy: trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đang lan rộng ra toàn
cầu, các định chế tài chính sẽ phải xem xét lại chiến lược đầu tư và
danh mục đầu tư của mình. Điều đó có thể sẽ diễn ra sự điều chỉnh nhất
định của dòng đầu tư vào thị trường vốn Việt Nam, giảm bớt đầu tư vào
Việt Nam và có xu hướng đầu tư vào các kênh an toàn.
Tính đến thời điểm này, có khoảng 70 quỹ đầu tư quốc
tế lớn nhỏ đang thực hiện giải ngân trên thị trường chứng khoán Việt
Nam. Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ khiến các quỹ đầu tư nước ngoài khó huy
động vốn hơn hoặc sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư
khi những thị trường lớn của họ đang có vấn đề. Luồng tiền đầu tư gián
tiếp vào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng và có khả năng sẽ chảy ngược ra nếu
tình hình thế giới tiếp tục xấu đi.
- Thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua cũng
chịu ảnh hưởng nhiều từ thị trường chứng khoán thế giới. Mặc dù tình
hình vĩ mô của Việt Nam 10 tháng đầu năm khả quan, nhưng chịu ảnh hưởng
từ sự sụt giảm chứng khoán toàn cầu gây tâm lý cho các nhà đầu tư nên
VN-Index cũng giảm liên tục. Hiện nay, VN-Index đã xuống dưới mức thấp
và niềm tin của các nhà đầu tư cũng bị ảnh hưởng nhiều. Nhà đầu tư nước
ngoài không bán chứng khoán ồ ạt nhưng cũng không mua vào nhiều chứng
khoán.
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và toàn cầu cũng gây khó khăn
cho việc phát hành trái phiếu và chứng khoán huy động vốn trên thị
trường quốc tế vì chi phí tăng cao và ít nhà đầu tư hơn do dòng vốn khan
hiếm. Nếu chúng ta phát hành để huy động với lãi suất quá cao thì đưa
về đầu tư trong nước sẽ không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sẽ dẫn đến khó
có khả năng trả nợ khi đến hạn.
Một nguồn lực tài chính mà chúng ta có thể hy vọng
tương đối ổn định là nguồn kiều hối. Trong một vài năm trở lại đây nguồn
kiều hối đã vào nước ta ở mức 9 – 10 tỷ USD, ngoài mục đích hỗ trợ thân
nhân và đầu tư kinh doanh, thì trong hai năm qua, nguồn vốn này đưa về
nước còn thêm mục đích đầu tư bất động sản và đầu tư chứng khoán. Tuy
nhiên, tình hình khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới hiện nay có thể làm
cho nguồn này giảm vì tỷ lệ thất nghiệp ở các nước gia tăng, thu nhập
của nhiều người sẽ giảm mạnh. Hơn nữa, thị trường chứng khoán và bất
động sản ở ta cũng không còn hấp dẫn như trước đây nên khoản đầu tư vào
các lĩnh vực này qua con đường kiều hối sẽ giảm mạnh.
Cùng với khó khăn của các nguồn vốn trên, thì nguồn
vốn vay nước ngoài cũng sẽ bị hạn chế vì khan hiếm về vốn, chi phí vốn
cao và người cho vay cũng sẽ bớt đi. Hơn nữa nếu vay để đầu tư trong
giai đoạn này thì hiệu quả rất thấp nên cũng sẽ ít nhà đầu tư cố đi vay
nước ngoài về để đầu tư nên khả năng đầu tư từ nguồn vốn này sẽ giảm.
Bên cạnh sự khó khăn và giảm đầu tư nước ngoài tại
nước ta trong thời gian tới do khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới như
đã nêu ở trên, thì chúng ta cũng thấy những cơ hội để các nguồn vốn này
giảm không nhiều, đó là:
- Việt Nam đang được coi là nền kinh tế, đất nước có
môi trường đầu tư ổn định nên nhiều nhà đầu tư vẫn muốn đầu tư vào nước
ta. Nhiều nhà đầu tư vẫn tin vào tương lai và triển vọng phát triển của
nền kinh tế nước ta và cho rằng tác động của khủng tài chính Mỹ và thế
giới vào nước ta chỉ ở mức độ nhất định và sẽ khắc phục trong thời gian
tới.
- Các nhà đầu tư Nhật Bản, Châu Âu đã nhắm vào khu
vực Đông Nam Á và lên chiến lược trong 10 năm tới, trong đó nhấn mạnh
nhất vào Việt Nam.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NGĂN CHẶN KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
Trước tình hình khủng hoảng tài chính, tíán dụng thế
giới và nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực, lạm phát
tháng 10 đã ở mức -0,19%, tháng 11 là -0,76% so với tháng 10, nhưng vẫn
đang ở trong tình trạng lạm phát cao. Do vậy, mục tiêu tổng quát về kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2009 đã được Quốc hội khóa XII
thông qua ngày 6/11/2008 là: “Tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn
ngừa suy giảm, bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh
tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị,
bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện thực
hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010”.
Bên cạnh những khó khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế
giới vào nước ta, phải kể đến những khó khăn nội tại nền kinh tế như: do
thủ tục phiền hà, vướng mắc không được tháo gỡ nên nhiều công trình, dự
án, doanh nghiệp gặp khó khăn
Chúng ta cần chuẩn bị các biện pháp tổng thể:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhóm giải
pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục chíánh sách tiền tệ chặt chẽ nhưng
linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường (không đưa các giải pháp
sốc). Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt
theo diễn biến của thị trường như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng…
Trước mắt hạ lãi suất xuống một cách phù hợp theo tín hiệu thị trường.
Xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, bảo đảm các khoản nợ này ở
mức an toàn. Rà soát và kiểm soát chặt chẽ các khoản vay kinh doanh bất
động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi mới và cơ cấu lại hệ thống ngân
hàng, cần đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng nhằm lành mạnh hoá hệ thống
này tránh tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Thứ hai, tăng cường sự giám sát của Chính
phủ đối với hệ thống tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán. Rà
soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân hàng. Rà soát lại các
ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án có tính
rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại,
đặc biệt là tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động
sản, chứng khoán. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể
để có phương án, giải pháp dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống
ngân hàng, tài chính.
Thứ ba, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có
chính sách hỗ trợ nông nghiệp khắc phục hậu quả bão lụt, hỗ trợ người
dân sản xuất lương thực, thực phẩm và người dân nghèo vùng sâu, vùng xa,
tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Có
chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt và thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát
cao và suy thoái kinh tế. Tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy
mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các tháng cuối năm.
Thứ tư, tiếp tục các chính sách về chặt chẽ
chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực công nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm
hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ và chuyển các khoản
đầu tư công sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm thuế cho
khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ có
thêm được nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy
mạnh đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan
trọng mà trong các thời điểm trước đây chưa có điều kiện đầu tư thì nay
đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.
Thứ năm, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc
về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về
giải ngân để tạo điều kiện các dự án, chương trình được triển khai
nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh bất động
sản thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ
cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở
các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học
sinh, cần hạn chế và đánh thuế cao vào các trường hợp đầu cơ bất động
sản.
Thứ sáu, đa dạng hóa các thị trường xuất
khẩu, để tránh bớt tác động từ việc giảm nhập khẩu của Mỹ và một số nước
chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng thế giới và
tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng thị trường
trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển
sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập
siêu. Thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức
tín dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Tăng cường và đẩy mạnh phát triển thị trường trong
nước, nhất là trong các khâu thu mua nguyên liệu nông sản bảo đảm gắn
kết chặt chẽ giữa phát triển vùng sản xuất nguyên liệu với công nghiệp
chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ thống phân phối các vật tư quan
trọng và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm vệ sinh
an toàn thực phẩm.
Thứ bảy, theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu
tư nước ngoài vào nước ta, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy
mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó theo dõi việc triển
khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và các nước Châu Âu để
có thể hỗ trợ khi cần thiết.
Thứ tám, tổ chức, điều hành và giám sát tốt
việc bảo đảm sự thông suốt của cơ sở bán lẻ trong nước, không gây đầu
cơ, ách tắc, khan hiếm hàng hoá. Đồng thời khuyến khích tiêu dùng hợp lý
và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức nhà nước và công nhân
ở các doanh nghiệp.
Thứ chín, tăng cường công tác thông tin,
quan hệ công chúng. Bám sát thường xuyên, cập nhật thông tin trong và
ngoài nước để có đánh giá đúng diễn biến tình hình; qua đó có được phản
ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Trích dẫn từ: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=587
0 comments:
Post a Comment