PHẠM XUÂN QUỲNH – ĐẠI HỌC LUẬT TPHCM
Chuyên đề 2
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA UCP ĐỐI VỚI TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG THANH TOÁN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Bản Quy tắc và Thực hành thống nhất tín
dụng chứng từ (Uniformes Customs and Pratice for Documentary Credits
-UCP) là kết quả của việc tập hợp những tập quán được hình thành bởi các
chủ thể hoạt động trong thương mại quốc tế. Nó không có giá trị ràng
buộc đối với Tòa án vì đó không phải là luật quốc gia mà cũng không phải
là điều ước quốc tế. Do vậy, việc áp dụng những nguyên tắc này không
đương nhiên. Phân tích từ góc độ pháp lý thì UCP được áp dụng để điều
chỉnh thư tín dụng khi có sự lựa chọn của các bên về việc áp dụng những
quy định này hoặc do tính chất tập quán của UCP khi không có sự lựa chọn
của các bên.
I. Khả năng áp dụng của UCP khi có sự lựa chọn của các bên
Lựa chọn
Học lý của Pháp thống nhất rằng UCP có
tính chất như một hợp đồng mẫu. Như vậy, đối với các quy định của hợp
đồng mẫu thì các bên trong giao dịch tín dụng chứng từ có thể lựa chọn
các quy định để điều chỉnh mối quan hệ của họ. Một tác giả nêu quan điểm
rằng, « trên thực tế, phần lớn các thư tín dụng phát hành trên thế giới
đều chứa đựng một điều khoản áp dụng UCP, quy định này đồng thời cũng
được nêu rõ trong hợp đồng mua bán ».
Trong rất nhiều vụ việc, chúng ta có thể
thấy rằng các bên quyết định áp dụng UCP để điều chỉnh quan hệ của họ.
Ví dụ, trong một tranh chấp do Tòa phúc thẩm Tunis giải quyết ngày 9
tháng 4 năm 2001, có sự tồn tại của « một thỏa thuận giữa người yêu cầu
mở thư tín dụng và ngân hàng phát hành, giao dịch này do Bản Quy Tắc và
Thực Hành Thống Nhất về tín dụng chứng từ do Phòng Thương Mại Quốc Tế ấn
hành ».
Trên thực tế, các bên có thể lựa chọn UCP
để điều chỉnh mối quan hệ của họ ngay từ thời điểm mở thư tín dụng hoặc
sau thời điểm đó. Ví dụ, khi phát sinh tranh chấp, nếu một bên muốn áp
dụng các quy định của UCP và bên kia không phản đối thì UCP sẽ được áp
dụng. Trong trường hợp này, chúng ta hiểu rằng các bên đã « ngầm » lựa
chọn UCP. Vấn đề cần làm sáng tỏ thêm, đó là liệu việc các bên lựa chọn
UCP có được thừa nhận ở Pháp và Việt Nam không.
Sự thừa nhận lựa chọn của các bên trong luật Pháp
Giá trị của việc lựa chọn
Khi các bên lựa chọn UCP
thì các quy định của nó sẽ trở thành một bộ phận của hợp đồng. Vi phạm
các quy định này tức là vi phạm hợp đồng. Theo luật của Pháp, cụ thể là
điều 1134 Bộ luật dân sự, hợp đồng là « luật của các bên ». Nó có giá
trị ràng buộc đối với các bên cũng như đối với thẩm phán giải quyết
tranh chấp liên quan đến hợp đồng đó. Trên thực tế, khi các bên lựa chọn
UCP để điều chỉnh quan hệ tín dụng chứng từ, Tòa án tối cao của Pháp
cũng thừa nhận UCP có giá trị như hợp đồng và thẩm phán không được vi
phạm những quy định này.
Ví dụ. Theo yêu cầu của
công ty Rodier, ngân hàng Natexis Banques Populaires đã phát hành tám
thư tín dụng cho người hưởng lợi là các nhà cung cấp hàng hóa nước
ngoài. Không bên nào phản đối việc áp dụng UCP. Tòa án tối cao Pháp đã
hủy bản án của Tòa phúc thẩm Douai căn cứ vào các điều 9, 13, 14 và 42
của UCP 500 và Điều 1134 BLDS Pháp. Cụ thể, bản án này liên quan đến
tranh chấp giữa người yêu cầu mở thư tín dụng và ngân hàng phát hành do
ngân hàng từ chối bộ chứng từ bất hợp lệ. Người yêu cầu mở thư tín dụng,
công ty Rodier phản đối Natexis Banques Populaires từ chối bộ chứng từ
do người thụ hưởng xuất trình. Rodier thông báo với ngân hàng rằng mình
đồng ý thanh toán mặc dù có sai sót trong bộ chứng từ. Tòa phúc thẩm
Douai nhận định rằng ngân hàng phát hành phải tuân theo quyết định của
người yêu cầu mở thư tín dụng và do đó, tòa án đã buộc ngân hàng thanh
toán khoản tiền trong thư tín dụng. Tuy nhiên quyết định này không nhận
được sự đồng thuận của các thẩm phán Tòa án tối cao, họ cho rằng « ngân
hàng phát hành không bị ràng buộc bởi các giao dịch trước đó với khách
hàng, hoàn toàn có quyền từ chối chấp nhận các điểm bất hợp lệ và từ
chối thanh toán, mặc dù đã tham khảo ý kiến của người yêu cầu mở thư tín
dụng và được sự đồng ý của họ chấp thuận bỏ qua các điểm bất hợp lệ. Do
đó, Tòa án tối cao nhận định rằng ngân hàng phát hành không bị ràng
buộc bởi quyết định của khách hàng. Ví dụ trên cho thấy rằng khi các bên
lựa chọn UCP thì thẩm phán phải tôn trọng các quy định của UCP như là
luật điều chỉnh hợp đồng.
Sự thừa nhận lựa chọn của các bên trong luật Việt Nam
Thừa nhận rõ ràng
Việc thừa nhận UCP là tập quán cũng được
đề cập trong các tài liệu chuyên ngành ở Việt Nam. Theo các tác giả Đỗ
Văn Đại và Mai Hồng Quỳ « đây là những tập quán, thông lệ quốc tế được
Phòng thương mại quốc tế (Paris) pháp điển hóa ». Sự thừa nhận UCP như
những tập quán thương mại quốc tế có vai trò rất quan trọng trong bối
cảnh nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam cho phép các bên lựa chọn tập
quán quốc tế để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Căn cứ vào các văn bản này,
các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận
áp dụng tập quán thương mại quốc tế. Vì thế, chúng ta có thể kết luận
rằng các quy định của pháp luật Việt Nam thừa nhận sự lựa chọn của các
bên liên quan đến việc áp dụng tập quán thương mại quốc tế. Do UCP được
thừa nhận như là tập quán quốc tế, các bên đều có quyền chọn lựa UCP để
điều chỉnh quan hệ hợp đồng của họ.
Thừa nhận « ngầm »
Theo điều 769, khoản 1
Bộ luật dân sự, « quyền và nghĩa vụ của các bên theoo hợp đồng được xác
định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa
thuận khác ».
Căn cứ vào Bộ luật dân sự, luật áp dụng
cho hợp đồng là luật của nước nơi thực hiện hợp đồng nếu các bên « không
có thỏa thuận khác ». Khi các bên quyết định lựa chọn UCP tức là các
bên đã có một thỏa thuận khác về luật áp dụng. Do đó, luật của nước nơi
thực hiện hợp đồng sẽ không được áp dụng để điều chỉnh giao dịch tín
dụng chứng từ. Chúng ta phải tôn trọng lựa chọn của các bên. Điều đó cho
thấy nếu Bộ luật dân sự không cho phép rõ ràng các bên lựa chọn tập
quán quốc tế thì nó cũng « ngầm » thừa nhận sự lựa chọn này.
Từ những phân tích trên,
chúng ta có thể kết luận rằng pháp luật Việt Nam thừa nhận một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp lựa chọn áp dụng UCP của các bên tham gia giao
dịch thanh toán bằng thư tín dụng.
Ngoại lệ.
Trong trường hợp có sự khác biệt giữa
luật quốc gia và tập quán quốc tế thì luật quốc gia phải được tuân thủ.
Theo các quy định của pháp luật Việt Nam, việc lựa chọn áp dụng tập quán
chỉ được chấp nhận khi thỏa mãn một số điều kiện. Ví dụ như việc áp
dụng tập quán thương mại quốc tế không được trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam.
Nguyên tắc này cũng nhận được sự đồng
thuận của các nhà soạn thảo UCP, « sự áp dụng của UCP đối với tín dụng
chứng từ không ngăn cản việc Tòa án áp dụng pháp luật quốc gia. UCP
không quy định về những khác biệt giữa UCP và luật quốc gia. Những tranh
chấp phát sinh sẽ do Tòa án giải quyết ».
Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu pháp
luật Việt Nam trong lĩnh vực thương mại, ngân hàng, chúng tôi không tìm
thấy bất cứ văn bản nào liên quan đến việc phát hành thư tín dụng cũng
như những hoạt động của ngân hàng Việt Nam tham gia vào giao dịch tín
dụng chứng từ. Do không có văn bản điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
thư tín dụng và do sự phổ biến của UCP trong thương mại quốc tế, chúng
ta có thể suy luận rằng các quy định của UCP không trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Theo ông Nguyễn Trọng Thùy, « trên
thực tế, không có khác biệt giữa tập quán quốc tế và pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực thương mại, ngân hàng ».
Do đó, các bên tham gia vào hoạt động
ngân hàng hoàn toàn có thể thỏa thuận áp dụng Bản Quy Tắc và Thực Hành
Thống Nhất về tín dụng chứng từ của Phòng Thương Mại Quốc Tế. Theo quan
điểm của nhiều tác giả, « tập quán do các bên lựa chọn là một bộ phận
của hợp đồng. Vì thế, tuân thủ tập quán đó cũng là tuân thủ hợp đồng ».
Ông Đỗ Tất Ngọc, chuyên gia về thanh toán quốc tế của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, cho biết : « UCP không được tự động áp
dụng để điều chỉnh giao dịch thư tín dụng mà mang tính pháp lý tùy ý.
Nghĩa là các bên tham gia có quyền lựa chọn áp dụng hay không áp dụng.
Nhưng một khi đã đồng ý áp dụng thì các quy tắc sẽ ràng buộc quyền và
nghĩa vụ của các bên ».
Vướng mắc
Trên thực tế, trong
nhiều thư tín dụng có một điều khoản nêu rằng « Trừ khi có quy định
khác, thư tín dụng này căn cứ theo Bản Quy Tắc và Thực Hành Thống Nhất
về tín dụng chứng từ, bản sửa đổi …, ấn bản ICC số… ». Liệu điều khoản
này có được xem là một « lựa chọn rõ ràng » của các bên áp dụng UCP điều
chỉnh giao dịch tín dụng thư hay không ? Như chúng ta đã biết, phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ bao gồm sự cam kết của ngân hàng đối
với người thụ hưởng. Tuy nhiên, còn có sự tham gia của nhiều chủ thể
khác trong giao dịch này. Trong trường hợp phát sinh tranh chấp, điều
khoản trên trong thư tín dụng có được xem như lựa chọn áp dụng UCP điều
chỉnh quan hệ giữa các bên hay không ? Câu trả lời thật không đơn giản
và chúng tôi cũng không tìm thấy ví dụ trong thực tiễn xét xử của tòa
án.
Nhận xét so sánh
Được xem như những quy
định của hợp đồng mẫu, các bên có thể lựa chọn UCP để điều chỉnh giao
dịch tín dụng chứng từ. Lựa chọn này có thể được thực hiện ngay khi phát
hành thư tín dụng hoặc sau một thời gian. Luật của Pháp và luật Việt
Nam đều thừa nhận rằng một khi các bên đã lựa chọn UCP thì các quy định
của nó là một phần cấu thành của hợp đồng. Do đó, tuân thủ UCP cũng là
tuân thủ hợp đồng. Án lệ của Pháp đã khẳng định cụ thể nguyên tắc này. Ở
Việt Nam, nhiều văn bản pháp luật (luật, nghị định) thừa nhận một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp quyền lựa chọn áp dụng tập quán quốc tế của các
bên, bao gồm cả UCP. Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên cũng thể
hiện rõ ràng sự lựa chọn áp dụng UCP. Trong trường hợp đó, UCP có được
áp dụng để điều chỉnh quan hệ tín dụng chứng từ không ? Chúng ta hãy tìm
câu trả lời trong phân đoạn sau.
II – Khả năng áp dụng của UCP khi không có sự lựa chọn của các bên
Giới thiệu.
Đối với một thư tín dụng không có điều
khoản nào liên quan đến việc áp dụng UCP thì thư tín dụng đó có chịu sự
điều chỉnh của bản quy tắc này không ? Chúng ta sẽ nghiên cứu vấn đề này
trong pháp luật của Pháp và Việt Nam.
Khả năng áp dụng của UCP khi không có sự lựa chọn của các bên theo pháp luật của Pháp
Học lý
Liên quan đến khả năng
áp dụng của UCP trong trường hợp các bên không lựa chọn rõ ràng bản quy
tắc, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều quan điểm khác nhau. Theo giáo sư
Jean Stoufflet, khoa Luật và Khoa học chính trị của trường đại học
Clermont-Ferrand, « UCP sẽ chắc chắn áp dụng đối với thư tín dụng có
chứa đựng điều khoản về áp dụng UCP. Tuy nhiên trong trường hợp thư tín
dụng không có dẫn chiếu đến UCP thì nó có được áp dụng để điều chỉnh
quan hệ tín dụng chứng từ không ? Câu trả lời là không bởi vì
bản quy tắc này vốn là một hợp đồng mẫu và chỉ được áp dụng khi các bên
thể hiện sự lựa chọn trong hợp đồng ». Tuy nhiên, giáo sư Mohamed Salah,
khoa Luật của trường đại học Nice, lại nêu quan điểm trái ngược, theo
đó « khi các bên trong hợp đồng không lựa chọn UCP thì nó có áp dụng cho
quan hệ thư tín dụng với tính chất là một tập quán được thừa nhận rộng
rãi hay không, câu trả lời sẽ là có .
Án lệ
Cả học lý và án lệ đều
thừa nhận UCP là một tập quán thương mại quốc tế. Theo Marie Tilche, «
bản quy tắc này có giá trị như tập quán »[15].
Tương tự, chúng ta có thể thấy rõ quan điểm này cũng được thể hiện
trong các án lệ của Pháp. Ví dụ, Tòa phúc thẩm Versailles nhận định rằng
« Bản Quy Tắc và Thực Hành Thống Nhất và tín dụng chứng từ do ICC ấn
hành năm 1993 có giá trị như luật tập quán »[16].
Với tính chất tập quán, UCP hoàn toàn có thể được áp dụng mặc dù không
có sự lựa chọn của chủ thể tham gia quan hệ. Marie Tilche cho rằng, «
trong trường hợp không có thỏa thuận giữa các bên, những nguyên tắc này
đương nhiên được áp dụng »[17].
Án lệ (tiếp).
Ví dụ, công ty V.T.N. đặt hàng công ty
G.F. gia công và cung ứng hàng may mặc. Người bán dự định giao hàng
trong hai đợt. Ngân hàng B.F.C.C. đã phát hành thư tín dụng không hủy
ngang cho người hưởng lợi là công ty G.F., thư tín dụng có hiệu lực đến
ngày 20 tháng 4 năm 1998. Ngân hàng B.N.P. đóng vai trò vừa là ngân hàng
thông báo, vừa là ngân hàng xác nhận. Tuy nhiên, lô hàng thứ hai được
giao sau khi thư tín dụng đã hết hiệu lực và do đó, ngân hàng B.F.C.C.
từ chối thanh toán cho người bán. Công ty G.F. đã khởi kiện ngân hàng
B.F.C.C. tại Tòa thương mại Nanterre đòi thanh toán số tiền theo giá trị
của thư tín dụng cùng với các khoản bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên tòa
đã bác yêu cầu của G.F. Công ty này kháng án với lý lẽ « vì bất kỳ
nguyên nhân nào, ngân hàng B.F.C.C. đã có lỗi trong việc không cung cấp
thông tin đầy đủ và tin cậy theo điều 12 UCP 500 ».
Tòa phúc thẩm Versailles đã thừa nhận
rằng giao dịch tín dụng chứng từ giữa công ty G.F. và ngân hàng B.F.C.C.
chịu sự điều chỉnh của UCP. Cụ thể, Tòa nêu quan điểm rằng « do không
có văn bản điều chỉnh quan hệ thư tín dụng nên Bản Quy Tắc và Thực Hành
Thống Nhất về tín dụng chứng từ do ICC ấn hành năm 1993 có giá trị như
luật tập quán và được áp dụng khi không có thỏa thuận trái ngược của các
bên tham gia về việc loại trừ một hoặc nhiều điểm cụ thể của Bản Quy
Tắc, nhưng trong trường hợp này thì các bên không có thỏa thuận trái
ngược nào ». Sau khi thừa nhận khả năng áp dụng của UCP, Tòa phúc thẩm
đã vận dụng các quy định của UCP, bác yêu cầu của công ty G.F. theo điều
42, UCP 500, liên quan đến việc dự trù thời hạn hiệu lực của thư tín
dụng[20] : « Việc gia hạn thời hạn hiệu lực của thư tín dụng phải được
sự đồng ý của tất cả các bên liên quan như người mua, người bán, ngân
hàng phát hành, ngân hàng xác nhận. Mặt khác, thỏa thuận này phải được
thể hiện rõ ràng trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng ».
Ví dụ trên cho thấy khi các bên không lựa
chọn UCP để điều chỉnh quan hệ tín dụng chứng từ thì bản quy tắc này
vẫn có thể được áp dụng với giá trị tập quán. Một nhà bình luận nêu quan
điểm, « vì là một tập quán, UCP phải được áp dụng mặc dù các bên không
thỏa thuận về việc áp dụng đó. Thực tiễn phong phú của thương mại quốc
tế đã chứng minh vai trò không thể thiếu của tập quán ». Tòa thương mại
Paris cũng đã thừa nhận hiệu lực bắt buộc của UCP với vai trò tập quán
trong quá trình giải quyết một tranh chấp trong đó một bên tham gia cho
rằng UCP chỉ là « những quy định mang tính chất gợi ý ». Tòa án đã bác
bỏ lập luận này và nhận định rằng bản quy tắc « là tập hợp những tập
quán hình thành từ thực tiễn thương mại quốc tế. Mặc dù không có sự lựa
chọn của các bên, UCP vẫn là một nguồn luật điều chỉnh giao dịch nếu các
bên không loại trừ việc áp dụng các quy định của nó ».
Nhận xét.
Chúng ta vừa nghiên cứu vai trò tập quán
của UCP, theo đó, mặc dù không có sự thỏa thuận trước, các bên vẫn có
thể áp dụng bản quy tắc này.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng UCP được áp
dụng khi thỏa mãn một số điều kiện. Theo quan điểm của án lệ, người ta
áp dụng UCP « khi không có văn bản khác điều chỉnh giao dịch tín dụng
chứng từ » và « bản quy tắc được áp dụng nếu các bên tham gia giao dịch «
không loại trừ việc áp dụng các quy định của UCP ».
Nhận xét cuối cùng, đó là sự thừa nhận
giá trị tập quán thương mại quốc tế của UCP không được thể hiện trong
các văn bản pháp luật mà được hình thành từ các phán quyết của tòa án
tại Pháp.
Khả năng áp dụng của UCP khi không có sự lựa chọn của các bên theo pháp luật Việt Nam
Văn bản pháp luật.
Chúng ta có thể nhận thấy sự tương đồng
giữa quan điểm của các thẩm phán Pháp và các quy định của pháp luật Việt
Nam trong lĩnh vực này. Theo đó, việc áp dụng tập quán quốc tế phải
thỏa mãn một số điều kiện. Cụ thể quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
không được Bộ luật dân sự, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam, điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên
điều chỉnh, đồng thời việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Do đó, chúng ta
kết luận rằng, với một số điều kiện nhất định, « tập quán quốc tế vẫn
được áp dụng khi các bên không thỏa thuận ».
Ví dụ.
Hãy cùng nghiên cứu một ví dụ để làm sáng
tỏ kết luận nêu trên. Đây là một tranh chấp do thẩm phán Việt Nam giải
quyết căn cứ vào tập quán quốc tế mặc dù các bên không thỏa thuận việc
áp dụng tập quán điều chỉnh trong hợp đồng.
Công ty Kolon International Corp. (Hàn
Quốc) và công ty Vinafood (Việt Nam) ký kết hợp đồng mua bán phân bón
nhập từ Mỹ. Hợp đồng có điều khoản về mở thư tín dụng không hủy ngang
cho người thụ hưởng là công ty Kolon. Ngân hàng Vietcombank đã phát hành
theo yêu cầu của công ty Vinafood. Sau khi nhận bộ chứng từ do ngân
hàng Cho Hung (Hàn Quốc) chuyển đến, Vietcombank kiểm tra và phát hiện
các điểm bất hợp lệ. Sau đó ngân hàng phát hành thông báo cho người yêu
cầu mở thư tín dụng về sai sót trong bộ chứng từ. Công ty Vinafood không
chấp nhận các sai sót này. Do đó, Vietcombank từ chối thanh toán cho
người thụ hưởng với lý do miêu tả trong các chứng từ không phù hợp với
yêu cầu của thư tín dụng. Người thụ hưởng Hàn Quốc không đồng ý với
quyết định trên và cho rằng các điểm mà ngân hàng phát hành xem là không
phù hợp không được quy định trong thư tín dụng. Công ty Kolon kiện
Vietcombank tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để đòi bồi thanh
toán khoản tiền của thư tín dụng.
Tuy nhiên, căn cứ vào các điều 29(b.ii),
37(c), 13(a) của UCP 500, Tòa án bác yêu cầu của Kolon. Các thẩm phán đã
áp dụng bản quy tắc này đối với giao dịch tín dụng chứng từ nói trên
trong khi không có yếu tố nào của bản án cho thấy các bên đã chọn UCP
điều chỉnh quan hệ của họ. Nói cách khác, thực tiễn xét xử của tòa án
Việt Nam cũng thừa nhận việc áp dụng UCP trong trường hợp không có sự
lựa chọn của các bên.
Nhận xét so sánh.
Tại Pháp và Việt Nam,
khi các bên không thể hiện rõ ràng sự lựa chọn UCP để điều chỉnh giao
dịch tín dụng chứng từ thì bản quy tắc này vẫn được áp dụng với tính
chất là tập quán thương mại quốc tế.
Điều kiện áp dụng UCP ở Pháp và Việt Nam
có nhiều điểm tương đồng. Ở Pháp, UCP được áp dụng « khi không có văn
bản khác điều chỉnh giao dịch thư tín dụng » và « khi các bên không loại
trừ việc áp dụng UCP ». Ở Việt Nam, Bộ luật dân sự quy định rằng việc
áp dụng tập quán quốc tế không được trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam. Hạn chế này không được ghi nhận trong án lệ của
Pháp. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, UCP không trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam do bản quy tắc này được thừa
nhận và áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thương mại quốc tế.
Lưu ý rằng pháp luật của Pháp và Việt Nam
thừa nhận các điều kiện áp dụng của UCP theo hai cách khác nhau. Ở
Pháp, các điều kiện này được hình thành từ các phán quyết tòa án trong
khi đó, ở Việt Nam, chúng được quy định trong các văn bản của Quốc hội
hoặc Chính phủ. Một điểm khác biệt nữa cần nhắc đến, đó là trong quá
trình giải quyết tranh chấp, các thẩm phán của Pháp đều giải thích tại
sao bản quy tắc này được áp dụng. Còn thẩm phán Việt Nam thường thiếu sự
giải thích quan trọng trên. Trong bản án mà chúng tôi vừa phân tích
cũng như trong một bản án sẽ tìm hiểu dưới đây, tòa án Việt Nam đã áp
dụng các quy định của UCP mà không trình bày lý do tại sao UCP được áp
dụng. Điều đó cho thấy rằng thẩm phán Việt Nam dường như không cẩn trọng
trong công việc xét xử như thẩm phán của Pháp. Theo chúng tôi, đối với
các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, trước tiên các thẩm phán nên giải
thích cặn kẽ tại sao văn bản này được áp dụng đối với vụ việc đó rồi mới
bắt đầu vận dụng các quy định để giải quyết, bởi vì như chúng ta đã đề
cập, bản thân các nguyên tắc UCP không ràng buộc Tòa án Việt Nam, việc
áp dụng chúng không đương nhiên.
Kết luận
Nghiên cứu về khả năng áp dụng của UCP
đối với giao dịch tín dụng chứng từ cho chúng ta thấy những điểm tương
đồng và khác biệt giữa pháp luật của Pháp và Việt Nam.
Pháp luật của hai nước đều thừa nhận việc
áp dụng UCP khi các bên tham gia giao dịch lựa chọn bản quy tắc này.
Trong trường hợp các bên không lựa chọn thì UCP vẫn được áp dụng với
tính chất tập quán quốc tế. Tuy nhiên các nhà làm luật ở Pháp và Việt
Nam quy định các điều kiện áp dụng UCP thông qua các cách thức khác
nhau.
Phạm Xuân Quỳnh
Khoa Luật Quốc tế
Đại học Luật TPHCM
(Tháng 2/2007)
Khoa Luật Quốc tế
Đại học Luật TPHCM
(Tháng 2/2007)
SOURCE: WWW.TAND.HOCHIMINHCITY.GOV.VN
0 comments:
Post a Comment