TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN
Trong nền kinh
tế thị trường, phát hành giấy tờ có giá là giải pháp huy động vốn khá dễ
dàng và thuận lợi của các tổ chức kinh tế nói chung và tổ chức tín dụng
nói riêng từ công chúng. Tuy nhiên, về phương diện học thuật, do việc
phát hành giấy tờ có giá là loại hình giao dịch mới xuất hiện ở nước ta
trong thời gian gần đây, nên các nghiên cứu từ góc độ pháp lý về vấn đề
này còn quá ít ỏi. Điều này, gây khó khăn rất lớn cho việc nhận thức
đúng bản chất pháp lý của giao dịch phát hành giấy tờ có giá nói chung,
cũng như giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng nói
riêng.
Bài viết này xin tham góp một ý kiến trao đổi xung
quanh vấn đề bản chất pháp lý của giao dịch phát hành giấy tờ có giá của
tổ chức tín dụng, trên cơ sở đó đưa ra một số nhận xét bước đầu về thực
trạng pháp luật điều chỉnh giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ
chức tín dụng ở nước ta hiện nay để tạo tiền đề cho việc hoàn thiện mảng
pháp luật này trong thời gian tới.
1. BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Giấy tờ có giá nói chung, được hiểu là chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất
định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể
khác. Giấy tờ có giá có ba thuộc tính: (1) Xác nhận quyền tài sản của
một chủ thể xác định; (2) Trị giá được bằng tiền; và (3) Có thể chuyển
giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao lưu dân sự. Đối với hoạt
động huy động vốn của các ngân hàng, khái niệm giấy tờ có giá được hiểu
theo nghĩa rất hẹp, chỉ bao gồm các phiếu nợ do ngân hàng phát hành dưới
dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền chủ nợ của
người sở hữu phiếu nợ và nghĩa vụ trả một số tiền nhất định của ngân
hàng phát hành vào một thời điểm xác định ghi trên phiếu nợ.
Trong lịch sử phát triển ngân hàng, việc phát hành
các giấy tờ có giá để huy động vốn được xem là loại hình giao dịch ra
đời muộn hơn so với giao dịch nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng. Loại
giấy tờ có giá đầu tiên do tổ chức tín dụng phát hành ra công chúng để
huy động vốn và được công chúng chấp nhận như một loại “tiền”, đó là các
chứng thư tiền gửi1. Loại tiền này luôn có bảo đảm bằng số lượng tiền
vàng hoặc tiền đúc do khách hàng đem gửi vào ngân hàng, nên nó luôn có
khả năng hoán đổi thành tiền vàng mỗi khi chủ sở hữu của các chứng thư
đó thấy cần sử dụng tiền vàng để chi tiêu. Có thể nói, những kỹ thuật sơ
khai của nghiệp vụ phát hành tiền ngân hàng cũng bắt đầu manh nha từ
thời điểm đó, khi các tổ chức tín dụng phát hành các chứng thư tiền gửi
để thu hút lượng tiền nhàn rỗi từ công chúng. Về sau, do nhu cầu huy
động vốn ngày càng gia tăng, cùng với sự chấp nhận rộng rãi của công
chúng đối với các loại giấy tờ có giá này, các tổ chức tín dụng đã bắt
đầu phát hành thêm một số loại giấy tờ có giá khác với hình thức và nội
dung hấp dẫn hơn, chẳng hạn như tín phiếu ngân hàng (phiếu nợ ngắn hạn)
và trái phiếu ngân hàng (phiếu nợ dài hạn). Nói chung, tất cả những giấy
tờ có giá này, cho dù có thể có những tên gọi khác nhau (ví dụ như CDs –
chứng thư tiền gửi của các ngân hàng Hoa Kỳ hay các tín phiếu, trái
phiếu ngân hàng ở Việt Nam…) nhưng đều có bản chất giống nhau, đó là:
các phiếu nợ hay chứng khoán ghi nợ, trong đó phản ánh việc một ngân
hàng mắc nợ người sở hữu tờ phiếu một số tiền nhất định và phải trả cho
chủ sở hữu tờ phiếu số tiền đó khi đến thời hạn ghi trên phiếu nợ.
Về phương diện kinh tế, giao dịch phát hành giấy tờ
có giá được hiểu là một nghiệp vụ huy động vốn của tổ chức tín dụng.
Nghiệp vụ này được thực hiện thông qua việc tổ chức tín dụng phát hành
ra công chúng các giấy tờ có giá dưới dạng chứng khoán nợ để vay tiền
của công chúng, với cam kết hoàn trả số tiền đó kèm theo một khoản lãi
vào ngày đáo hạn. Số vốn huy động bằng việc phát hành các chứng khoán nợ
ra công chúng được coi là một thành tố quan trọng trong cấu trúc tài
sản Nợ của tổ chức tín dụng, cùng với các bộ phận khác của tài sản Nợ
như tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn, hay tiền gửi tiết kiệm, các
khoản vay Ngân hàng Trung ương và vay của các định chế tài chính phi
ngân hàng khác…
Về phương diện pháp lý, giao dịch phát hành giấy tờ
có giá của tổ chức tín dụng được hiểu là hành vi pháp lý theo đó tổ chức
tín dụng cam kết vay tiền của khách hàng là tổ chức, cá nhân trong một
thời hạn nhất định với điều kiện sẽ hoàn trả cho khách hàng số tiền ghi
trên chứng thư nhận nợ do tổ chức tín dụng phát hành.
Giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, về bản chất pháp lý, việc phát hành giấy tờ
có giá của tổ chức tín dụng ra công chúng thực chất là một hành vi vay
tiền của khách hàng chứ không phải là hành vi “bán” giấy tờ có giá cho
khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi vì, trong quan hệ
giao dịch này, tổ chức tín dụng không hề có quyền sở hữu đối với các
giấy tờ có giá mà nó dự định phát hành, nên không thể đóng vai trò là
người bán. Mặt khác, trước khi các giấy tờ có giá được tổ chức tín dụng
chuyển giao cho khách hàng sở hữu như một chứng thư xác nhận quyền chủ
nợ và tổ chức tín dụng cũng chưa nhận được nguồn vốn tiền tệ do khách
hàng chuyển giao thì các chứng thư này thực chất chưa hề có giá trị thực
tế, nghĩa là không thể hoán đổi chúng thành tiền hay các tài sản khác
có giá trị tương đương với số tiền ghi trên mệnh giá của chứng thư. Điều
đó cho thấy, chỉ khi nào khách hàng chấp nhận trao đổi chứng thư đó với
tổ chức tín dụng bằng số tiền tương đương mệnh giá của chứng thư thì
khi đó, chứng thư này mới thực sự là có giá trị và mới phản ánh đúng tên
gọi của nó là “giấy tờ có giá” hay “tư bản giả”.
Hai là, về đối tượng của giao dịch, mặc dù tên gọi
của giao dịch là “phát hành các giấy tờ có giá” nhưng đối tượng của giao
dịch này không phải là các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát
hành, mà chính là các khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển quyền
sở hữu cho tổ chức tín dụng với điều kiện tổ chức tín dụng phải hoàn trả
cho khách hàng sau một thời hạn nhất định, kèm theo khoản lãi do các
bên thoả thuận. Về lý thuyết, tuy không phải là đối tượng của giao dịch
nhưng các chứng thư này được coi là hình thức pháp lý của giao dịch,
đồng thời là chứng cứ chứng minh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên
trong quan hệ giao dịch. Mặt khác, xét về phương diện kinh tế, các chứng
thư này cũng được coi là một loại “tiền ngân hàng” nhưng không phải là
tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành, mà là tiền được tạo ra bởi tổ
chức tín dụng trong quá trình huy động vốn, thông qua chức năng “tạo
tiền” của tổ chức tín dụng. Trên thực tế, các chứng thư nhận nợ do tổ
chức tín dụng phát hành ra công chúng có thể là chứng khoán nợ ngắn hạn –
có thời hạn thanh toán dưới 1 năm, ví dụ chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn;
kỳ phiếu ngân hàng hay tín phiếu của tổ chức tín dụng, hoặc là chứng
khoán nợ dài hạn (có thời hạn thanh toán từ 1 năm trở lên, ví dụ chứng
thư tiền gửi dài hạn hoặc trái phiếu ngân hàng…). Sự phân biệt giữa hai
loại chứng thư nhận nợ này chủ yếu nhằm xác định cơ chế phát hành và lưu
thông chúng như thế nào sau khi đã được phát hành trên thị trường bởi
tổ chức tín dụng (phát hành và bán lại cho ai, ở đâu và bằng cách nào?).
Ba là, về tư cách pháp lý, khi phát hành các giấy tờ
có giá để vay nợ của khách hàng, tổ chức tín dụng có tư cách là người
vay hay người mắc nợ, còn khách hàng “mua” giấy tờ có giá có tư cách là
người cho vay hay chủ nợ của tổ chức tín dụng. Mặc dù có tư cách là
người cho vay nhưng do giao dịch này được tổ chức tín dụng và khách hàng
xác lập, thực hiện thông qua một hợp đồng cho vay có thời hạn xác định
nên về nguyên tắc, khách hàng cho vay không thể rút vốn về trước kỳ hạn
như trong trường hợp họ gửi tiền có kỳ hạn tại tổ chức tín dụng (bằng
cách chịu lãi suất phạt với tổ chức tín dụng nhận tiền gửi). Nếu muốn
thu hồi vốn về trước kỳ hạn, cách duy nhất là người sở hữu giấy tờ có
giá (bên cho vay) ký hợp đồng chuyển nhượng chứng thư đó cho người khác
(chẳng hạn, có thể “bán” cho ngân hàng thương mại theo phương thức chiết
khấu hoặc bán cho các tổ chức, cá nhân khác theo phương thức thông
thường trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán).
Những đặc trưng pháp lý trên đây cho ta thấy, việc
phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng là một loại hình giao dịch
huy động vốn khá đặc biệt. Tính chất đặc biệt này còn được phản ánh cả
trong cơ chế hình thành quyền, nghĩa vụ của các bên trong giao dịch phát
hành giấy tờ có giá.
2. CƠ CHẾ XÁC LẬP GIAO DỊCH PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Phát hành giấy tờ có giá là hành vi pháp lý trong đó
thể hiện ý chí cam kết vay tiền của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Vì thế, hành vi pháp lý này cần phải được thực hiện theo một quy trình
chặt chẽ bao gồm các công việc chủ yếu như: Thông qua Hội đồng quản trị
về kế hoạch phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn từ công chúng; làm
thủ tục xin cấp giấy phép phát hành giấy tờ có giá tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền (hiện tại cơ quan này là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam);
triển khai việc niêm yết và phân phối các giấy tờ có giá cho những người
đầu tư. Các hành vi này tuy phản ánh đầy đủ quy trình hình thành giao
dịch nhưng thực ra chứng cứ quan trọng nhất thể hiện tập trung ý chí của
tổ chức tín dụng trong giao dịch này, chính là các giấy tờ có giá do
ngân hàng phát hành. Mặt khác, vì các chứng thư này đã thể hiện rõ ràng,
đầy đủ ý chí của tổ chức tín dụng (muốn vay tiền của khách hàng với số
lượng bao nhiêu, trong thời hạn bao lâu và trả lãi như thế nào) nên về
lý thuyết, có thể coi những chứng thư đó như là bằng chứng quan trọng
nhất về việc tổ chức tín dụng đã đưa ra đề nghị vay tiền. Bản đề nghị
này – chứng thư nhận nợ, sau khi đã được công bố phát hành và niêm yết
bởi tổ chức tín dụng thì về nguyên tắc, họ không thể tự ý rút lại hay
thay đổi nội dung bản đề nghị trong thời hạn phát hành chứng thư do pháp
luật quy định. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là vì, khi tiến hành các
thủ tục phát hành chứng thư, tổ chức tín dụng đã mặc nhiên chấp nhận
các quy định của pháp luật về thời hạn phát hành chứng thư và điều đó có
nghĩa rằng: tổ chức tín dụng đã tự mình đưa ra thời hạn trả lời đề nghị
cho tất cả các chủ thể khác là người tiếp nhận đề nghị. Trong trường
hợp này, có thể coi bản đề nghị hợp đồng chung như vậy là loại hợp đồng
không có thương lượng2, hay hợp đồng “gia nhập”3. Do đó, chỉ khi nào
khách hàng thể hiện ý chí chấp nhận bản đề nghị đó một cách vô điều kiện
bằng hành động chuyển giao cho tổ chức tín dụng quyền sở hữu số tiền
ghi trên chứng thư và nhận về mình quyền sở hữu đối với chứng thư được
tổ chức tín dụng chuyển giao thì khi đó, ý chí của hai bên mới có sự
thống nhất và hợp đồng vay tiền mới được hình thành, kéo theo hệ quả làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên cam kết.
Trong số các quyền, nghĩa vụ được tạo ra bởi các bên
từ giao dịch phát hành giấy tờ có giá thì đối với tổ chức tín dụng,
những quyền, nghĩa vụ cơ bản nhất bao gồm: quyền sở hữu đối với khoản
tiền thu được do phát hành giấy tờ có giá và đồng thời cũng có nghĩa vụ
hoàn trả số tiền này cho khách hàng kèm theo khoản lãi khi giấy tờ có
giá đến hạn thanh toán. Còn đối với khách hàng, họ được sở hữu giấy tờ
có giá do tổ chức tín dụng phát hành và chuyển giao, trong đó xác nhận
quyền chủ nợ của khách hàng đối với tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ
có giá. Với quyền năng này, khách hàng có thể chờ đợi đến ngày đáo hạn
của giấy tờ có giá để đòi tiền từ tổ chức tín dụng, hoặc nếu muốn thu
hồi vốn trước kỳ hạn thì họ có thể “bán” chứng thư đó cho người khác
trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán như một loại tài
sản.
Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu huy động vốn ngày càng
đa dạng, các tổ chức tín dụng đã phát hành nhiều loại giấy tờ có giá
trên thị trường với thời hạn, mệnh giá, lãi suất và khả năng chuyển
nhượng khác nhau. Chẳng hạn, ở Hoa Kỳ các tổ chức tín dụng có thể phát
hành chứng thư tiền gửi ngắn hạn (CDs) với giá trị bề mặt tối thiểu là
100.000 USD4, trong khi ở Anh, các tổ chức tín dụng lại có thể phát hành
các trái phiếu ngân hàng có thời hạn hoặc không thời hạn có lãi suất
thả nổi5. Còn ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, các tổ chức tín dụng
đã bắt đầu phát hành một số loại chứng khoán nợ ra công chúng như kỳ
phiếu ngân hàng có mục đích, trái phiếu tổ chức tín dụng6, hay các chứng
chỉ tiền gửi ngắn hạn và dài hạn. Mặc dù có tên gọi khác nhau, nhưng
hầu như tất cả các chứng khoán kể trên được phát hành bởi các tổ chức
tín dụng trên thế giới đều có chung bản chất, đó là các chứng khoán nợ
trong đó phản ánh việc tổ chức tín dụng mắc nợ người sở hữu chứng khoán
một số tiền nhất định với nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi, vào một ngày
nhất định trong tương lai.
3. MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH GIAO DỊCH PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Phát hành giấy tờ có giá là loại hình giao dịch huy
động vốn khá thông dụng của các tổ chức tín dụng và thường được quy định
một cách rõ ràng, cụ thể trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới7.
Ở Việt Nam, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ
chức tín dụng (cụ thể hơn là trái phiếu ngân hàng) được quy định lần
đầu tiên tại Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính. Sau đó, văn bản này được cụ thể hoá bằng các Quyết định số
212/QĐ-NH1 ngày 22/9/1994; Quyết định số 214/QĐ-NH1 ngày 23/9/1994;
Quyết định số 243/QĐ-NH1 ngày 30/3/1994 và Quyết định số 247/QĐ-NH1 ngày
05/10/1994 về việc cho phép các tổ chức tín dụng, ngân hàng đầu tư phát
triển được phát hành trái phiếu ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân Việt
Nam để huy động vốn trung hạn và dài hạn trên thị trường vốn. Gần đây,
giao dịch phát hành trái phiếu ngân hàng và các giấy tờ có giá khác lại
tiếp tục được quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng ban hành ngày
12/12/1997 (đạo luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm
2004) và được cụ thể hoá bằng các văn bản dưới luật như Nghị định số
49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
ngân hàng thương mại (khoản 2 Điều 3); Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày
17/3/1999 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng nước
ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam
(khoản 2 Điều 30); Quyết định số 1287/2002/QĐ-NHNN ngày 22/11/2002 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế phát hành giấy tờ
có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước. Sau đó, văn bản
này đã bị thay thế bởi Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế phát hành giấy tờ
có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước (sau đây gọi
tắt: Quyết định số 02). Gần đây nhất, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ban hành Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 ban hành Quy chế
phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng (sau đây gọi
tắt: Quyết định số 07) để thay thế cho Quyết định số 02.
Hành động này có thể xem như một nỗ lực đáng kể của
Ngân hàng Nhà nước trong việc kết nối hoạt động huy động vốn của tổ chức
tín dụng với thị trường chứng khoán, thông qua đó góp phần thúc đẩy
hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, vốn đang gặp nhiều khó
khăn trong thời điểm hiện nay.
Có thể nói, việc ban hành Quyết định số 07 là cần
thiết và đúng hướng. Văn bản này, đã từng bước thiết lập sự đồng bộ giữa
các quy định về phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng với các
quy định của Luật chứng khoán năm 2006 về phát hành chứng khoán ra công
chúng. Đặc biệt, văn bản này đã quy định thêm một số vấn đề mới mà các
văn bản bị thay thế chưa quy định hoặc quy định chưa rõ, chẳng hạn như:
quyền phát hành trái phiếu chuyển đổi và chứng quyền của tổ chức tín
dụng cổ phần; việc áp dụng cơ chế phát hành thông qua phương thức đấu
thầu, thông qua tổ chức làm đại lý hoặc tổ chức trung gian bảo lãnh phát
hành chứng khoán…
Tuy nhiên, nhìn từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, Quyết định số 07 vẫn còn một số điểm bất cập, hạn chế sau đây:
Thứ nhất, về bản chất pháp lý của quan hệ phát hành
giấy tờ có giá. Trên nguyên tắc, việc phát hành các giấy tờ có giá của
tổ chức tín dụng chính là những thoả thuận vay nợ giữa tổ chức tín dụng
với khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi vì, thực chất các
giấy tờ có giá được phát hành theo Quy chế này đều là những phiếu nợ do
các tổ chức tín dụng phát hành để cam kết hoàn trả một số tiền nhất
định ghi trên giấy tờ có giá đó cho người sở hữu vào một ngày nhất định
trong tương lai. Điều này có nghĩa rằng: khi phát hành giấy tờ có giá
cho người đầu tư là các tổ chức, cá nhân, tổ chức tín dụng không phải là
“người bán” giấy tờ có giá mà chỉ là người tiếp nhận vốn đầu tư (người
vay), còn khách hàng là tổ chức, cá nhân cũng không phải là “người mua”
giấy tờ có giá theo đúng nghĩa của từ này mà chỉ là người đầu tư gián
tiếp vào tổ chức tín dụng bằng cách cho vay đối với chủ thể này để được
nhận một khoản lãi cho vay theo thoả thuận. Tuy nhiên, các quy định hiện
hành trong Quyết định số 07 lại thể hiện quan điểm coi giao dịch phát
hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng như là một giao dịch “mua bán”
giấy tờ có giá, chứ không khẳng định và thừa nhận bản chất là giao dịch
cho vay của quan hệ phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng.
Thứ hai, mặc dù Quyết định số 07 đã đặt nền móng cho
việc nhất thể hoá các quy chế về phát hành các loại giấy tờ có giá của
tổ chức tín dụng, nhưng nét nổi bật dễ nhận thấy trong văn bản pháp quy
này là nhà làm luật vẫn chủ trương tách bạch giữa hoạt động phát hành
giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng với hoạt động phát hành giấy tờ có
giá của các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng. Điều này thể
hiện ở chỗ, hiện tại, việc phát hành các giấy tờ có giá của các chủ thể
không phải là tổ chức tín dụng đang được thực hiện theo quy định của
Luật chứng khoán năm 2006, còn việc phát hành giấy tờ có giá trong nước
của tổ chức tín dụng để huy động vốn (trong đó chủ yếu là các trái phiếu
ngân hàng) thì vẫn được thực hiện theo quy định riêng tại Quy chế ban
hành kèm theo Quyết định này. Theo thiển nghĩ của người viết, quy định
như vậy là chưa hợp lý, bởi lẽ trái phiếu ngân hàng thực chất cũng là
một loại chứng khoán dài hạn nên về nguyên tắc cần phải được phát hành
và lưu thông trên thị trường chứng khoán, giống như cổ phiếu và trái
phiếu công ty hay trái phiếu chính phủ. Đặc biệt, việc phát hành Hối
phiếu nhận nợ của các tổ chức tín dụng cho khách hàng (người cho vay),
với ý nghĩa là một loại giấy tờ có giá ngắn hạn để huy động vốn, đồng
thời tạo thêm “hàng hoá” cho thị trường tiền tệ, cũng chưa được đề cập
đến trong Quy chế này, dù chỉ là một quy định mang tính dẫn chiếu đến
Luật các công cụ chuyển nhượng.
Thiết nghĩ, những phân tích trên có thể là sự gợi ý
cần thiết cho các nhà làm luật trong quá trình hoàn thiện cơ chế điều
chỉnh pháp luật đối với giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức
tín dụng ở nước ta trong bối cảnh hiện nay
SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ Số 9/2008
0 comments:
Post a Comment