BÙI HƯƠNG QUẾ – Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp
Sau 15 năm đàm phán
căng thẳng, Trung Quốc chính thức trở thành thành viên thứ 143 của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 11/12/2001. Kể từ khi gia nhập
tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này, đầu tư và thương mại của Trung
Quốc đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Trong giai đoạn 2001-2005, tốc độ
tăng GDP bình quân mỗi năm đạt 9,5% (năm 2006 ước đạt 10,5%). Tính theo
USD, GDP của Trung Quốc đã tăng gấp đôi, từ 1.325 tỷ USD năm 2001 lên
2.235 tỷ USD năm 2005. Trước đây, Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 6
thế giới, sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã đứng hàng thứ
ba. Trung Quốc cũng đã trở thành nước thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất
thế giới.
Trong lĩnh vực pháp luật, việc gia nhập WTO đã tác
động lớn đến hệ thống pháp luật và thể chế của Trung Quốc. Để thực hiện
các cam kết của WTO, Trung Quốc đã tiến hành một đợt rà soát pháp luật
toàn diện. Hàng nghìn văn bản pháp luật, Bgiải thích pháp luật của toà
án có liên quan tới WTO đã được đối chiếu, rà soát với các cam kết của
WTO. Trung Quốc cũng đã ban hành rất nhiều luật có liên quan tới thương
mại như các luật có liên quan tới công ty, phá sản, ngân hàng, thể chế
tài chính. Bên cạnh đó, hệ thống tư pháp và bổ trợ tư pháp của Trung
Quốc cũng đã được cải tổ theo xu hướng hiện đại. Số lượng cán bộ pháp
luật ở Trung Quốc cũng tăng nhanh trong thời gian vừa qua đặc biệt là
luật sư. Số lượng luật sư của Trung Quốc dự kiến sẽ tăng lên khoảng
200.000 vào năm 2010 so với 175.000 vào năm 1999.
Để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về tác động
của việc gia nhập WTO đối với hệ thống pháp luật và tư pháp Trung Quốc,
bài viết dưới đây xin trình bày về những cam kết chính của Trung Quốc
đối với WTO, trên cơ sở đó sẽ đưa ra những đánh giá và bình luận về tác
động của việc gia nhập WTO đối với hệ thống pháp luật và tư pháp của
Trung Quốc. Những kinh nghiệm của Trung Quốc sau 5 năm thực hiện cam kết
gia nhập WTO sẽ là bài học quý báu cho quá trình thực hiện các cam kết
gia nhập WTO của Việt Nam.
I. Cam kết của Trung Quốc với WTO
WTO là hệ thống thương mại đa biên nhằm nâng cao sự
thịnh vượng của các quốc gia thành viên thông qua việc cắt giảm các hạn
chế của Chính phủ đối với thương mại. Các nghĩa vụ trong WTO bao trùm
lên các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu
trí tuệ, minh bạch hoá và quyền khiếu kiện với 2 nghĩa vụ chính: (a)
nghĩa vụ tiếp cận thị trường (các nước thành viên cam kết mở cửa thị
trường trong nước cho các hàng hoá và dịch vụ cụ thể của các nước thành
viên khác) (b) nghĩa vụ quy tắc, là những quy tắc của WTO để điều hành
các hoạt động thương mại quốc tế. Các cam kết về tiếp cận thị trường ở
các nước thành viên có thể khác nhau và được đàm phán nhưng quy tắc ứng
xử của WTO là thống nhất và việc thay đổi nó không hề dễ dàng. Các quy
tắc của WTO khá rộng không chỉ bao trùm lên các biện pháp biên giới ví
dụ như thuế quan và hạn chế nhập khẩu mà còn bao gồm các biện pháp nội
địa ảnh hưởng tới thương mại ví dụ như thuế và quy định nội địa, tiêu
chuẩn về kỹ thuật và sức khoẻ, trợ cấp chính phủ, yêu cầu về đầu tư và
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việc thực thi các nghĩa vụ WTO sẽ được đảm
bảo thực thi thông qua cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Cơ quan
này có thẩm quyền bắt buộc và quyết định của cơ quan này có giá trị ràng
buộc đối với các bên. Nếu bên thua kiện không thực hiện các phán quyết
của cơ quan giải quyết tranh chấp WTO, thì WTO cho phép được áp dụng các
biện pháp trừng phạt thương mại. WTO cũng yêu cầu các nước thành viên
phải thông báo các hoạt động thương mại và rà soát thương mại định kỳ.
Là một nước đàm phán gia nhập, Trung Quốc có
nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tiếp cận thị trường và tuân thủ các
quy định của WTO. Phạm vi và mức độ cam kết tiếp cận thị trường của
Trung Quốc khá rộng và được cho là cam kết cao nhất trong lịch sử WTO.
Đối với thương mại hàng hoá, Trung Quốc đã cam kết cắt giảm hàng rào
thuế quan ở mức mà rất ít nước có thể thực hiện được. Đối với thương mại
dịch vụ, các cam kết của Trung Quốc còn rộng hơn so với các cam kết mà
một số nhóm nước trong đó có các nước phát triển đưa ra trong vòng đàm
phán Uruguay. Mức độ tự do hoá thương mại ở Trung Quốc được cho là đáng
khích lệ trong điều kiện Trung Quốc là một nước đang phát triển. Có thể
nói rằng các cam kết của Trung Quốc đối với WTO được chia thành 2 loại
chính. Loại thứ nhất là các nghĩa vụ vượt quá yêu cầu của các quy định
chung của WTO. Các nghĩa vụ này được gọi là WTO cộng. Các nghĩa vụ WTO
cộng liên quan tới các điều kiện về kinh tế thị trường, đầu tư nước
ngoài và quản lý trong nước. Loại thứ hai liên quan tới vấn đề về đối xử
của các quốc gia khác với hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Các quy định
theo loại này cho phép các thành viên nhập khẩu loại bỏ các nguyên tắc
tiêu chuẩn của WTO để sử dụng các biện pháp thương mại như phá giá,
chống trợ cấp và tự vệ đối với các hàng hoá của Trung Quốc trên cơ sở có
sự phân biệt đối xử. Trong khi một số quy định có thời hạn bãi bỏ thì
một số quy định lại tồn tại vĩnh viễn. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã đồng ý
không nhận các ưu đãi về đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các nước
đang phát triển theo Hiệp định của WTO. Tất cả các cam kết về thị trường
và các nghĩa vụ theo quy định của WTO của Trung Quốc được đảm bảo thực
thi thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Để đảm bảo việc thực hiện các cam kết mở rộng của
Trung Quốc, một cơ chế rà soát định kỳ đã được thiết lập nhằm đảm bảo sự
tuân thủ các cam kết của Trung Quốc. Theo cơ chế này, thực tiễn áp dụng
của Trung Quốc cũng là đối tượng để các quốc gia thành viên rà soát
hàng năm trong thời gian 8 năm kể từ sau khi gia nhập và rà soát lần
cuối sau 10 năm. Cơ chế rà soát định kỳ hoàn toàn tách biệt với rà soát
chính sách thương mại thường xuyên do WTO thực hiện đối với các nước
thành viên.
Tóm lại, Trung Quốc phải thực hiện các nghĩa vụ cao
hơn nhiều so với bất kỳ thành viên nào của WTO. Nghị định thư gia nhập
WTO của Trung Quốc là điều ước quốc tế đầu tiên có những điều khoản phân
biệt đối xử. Nhưng tại sao mà Chính phủ Trung Quốc lại chấp nhận thực
hiện các nghĩa vụ nặng nề này trong hoàn cảnh Trung Quốc vẫn đang được
hưởng thuế MFN của WTO đối với hầu hết các đối tác thương mại chính. Hơn
thế nữa, quy chế thành viên WTO cũng sẽ không mang lại khả năng tiếp
cận thị trường nhiều hơn cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc? Động cơ của
các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đưa ra quyết định như vậy vẫn còn là ẩn
số nhưng một điều rõ ràng rằng chính phủ Trung Quốc đang muốn khai thác
nguồn lực bên ngoài, sự gia tăng cạnh tranh của các nhà đầu tư nước
ngoài khi cam kết về mở cửa thị trường được nới rộng. Đồng thời các quy
tắc đa phương của WTO sẽ giúp cho việc chuyển dịch trong khu vực kinh tế
nhà nước của nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu chiến lược này, Chính
phủ Trung Quốc đã sẵn sàng chấp nhận sự đối xử phân biệt và không công
bằng như là cái giá của việc gia nhập. Nói một cách khác, việc gia nhập
WTO là quyết định mang tính chiến lược của các nhà lãnh đạo Trung Quốc
nhằm tự do hóa hơn nữa nền kinh tế của Trung Quốc. Tăng trưởng nhảy vọt
trong thương mại và đầu tư kể từ khi gia nhập chính là kết quả trực tiếp
của quá trình tự do hóa này.
II. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hệ thống pháp luật và tư pháp của Trung Quốc
2.1. Tác động đến Hiến pháp
WTO là tổ chức quốc tế đầu tiên có thẩm quyền can
thiệp vào các chính sách nội địa của các nước thành viên mà Trung Quốc
gia nhập. WTO cũng là tổ chức quốc tế đầu tiên mà Trung Quốc gia nhập có
cơ chế giải quyết tranh chấp ràng buộc với tất cả các nước thành viên.
Vì thế, việc gia nhập WTO tạo ra rất nhiều thách thức mới cho hệ thống
pháp luật của Trung Quốc. Một trong những vấn đề đầu tiên mà hệ thống
pháp luật Trung Quốc gặp phải là vị trí pháp lý của các Hiệp định WTO
đối với pháp luật trong nước. Hiến pháp Trung Quốc không đề cập tới vị
trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Trung Quốc. Câu hỏi
được đặt ra là các Hiệp định của WTO có được áp dụng trực tiếp ở Trung
Quốc mà không cần phải chuyển hoá hay không? Trước khi gia nhập WTO vấn
đề này cũng không được chú ý lắm do Trung Quốc chưa bao giờ phải đối mặt
với nhiều nghĩa vụ như trong WTO. Sau rất nhiều tranh luận khoa học,
cuối cùng cũng đi đến một một thống nhất là các Hiệp định WTO không được
áp dụng trực tiếp theo luật Trung Quốc mà thay vào đó là các quy định
của Hiệp định được chuyển hóa vào pháp luật trong nước. Mặc dù các Hiệp
định của WTO không có hiệu lực áp dụng trực tiếp theo pháp luật của
Trung Quốc nhưng Trung Quốc cũng vẫn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ với
WTO giống như pháp luật quốc tế. Nếu Trung Quốc không thực thi các nghĩa
vụ này thì có thể dẫn đến những trừng phạt theo luật của WTO mà không
cần quan tâm tới vị trí của các nghĩa vụ WTO theo pháp luật trong nước.
Đối với hệ thống văn bản pháp luật mà đầu tiên là
Hiến pháp, việc gia nhập WTO cũng đã ảnh hưởng đến Hiến pháp do các
nghĩa vụ WTO cộng mà Trung Quốc cam kết có một số nghĩa vụ tác động đến
các khía cạnh cơ bản của nền kinh tế. Những cam kết của Chính phủ bao
gồm: (a) để thị trường điều chỉnh giá của hàng hoá và dịch vụ trừ trường
hợp danh mục một số hàng hoá cụ thể [1]; (b) cho phép trong vòng 3 năm
kể từ khi gia nhập, tất cả công ty bao gồm cá nhân và pháp nhân nước
ngoài đầu tư hoặc đăng ký ở Trung Quốc được tham gia hoạt động xuất khẩu
và nhập khẩu và hạn chế hoạt động kinh doanh của nhà nước đối với danh
mục cụ thể [2]; (c) không ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các
quyết định thương mại của các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) trừ những
trường hợp phù hợp với các Hiệp định của WTO. Tất cả các cam kết đều đòi
hỏi Chính phủ Trung Quốc phải duy trì các điều kiện cần thiết cho việc
phát triển nền kinh tế thị trường.
Cam kết nền kinh tế thị trường vượt ra ngoài khuôn
khổ pháp luật trong nước của Trung Quốc. Hiến pháp Trung Quốc quy định
nhà nước Trung Quốc tiến hành quản lý kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Khái niệm này về mặt pháp lý chưa xác định cụ thể. Tuy nhiên có
thể thấy rằng các yếu tố của nền kinh tế thị trường gần như là vắng mặt
khi nhà nước can thiệp, hoạt động định giá và hầu hết việc quản lý giá
đã bị dỡ bỏ trước khi Trung Quốc gia nhập WTO. Chính việc gia nhập WTO
đã giúp cho Chính phủ Trung Quốc hạn chế can thiệp vào xây dựng giá.
Cũng chính việc gia nhập WTO cũng giúp cho Trung Quốc chấm dứt việc quản
lý trực tiếp đối với các hoạt động ngoại thương. Mặc dù vào thời điểm
gia nhập, hệ thống ngoại thương của Trung Quốc đã được phân cấp, chính
phủ chỉ nắm giữ quyền phân phối quyền thực hiện hoạt động xuất khẩu và
nhập khẩu. Trung Quốc cuối cùng cũng đã bỏ việc kế hoạch hoá trung ương
khi chính phủ thực hiện thực thi các cam kết của WTO nhằm tự do hoá
quyền thương mại trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập. Đối với các doanh
nghiệp nhà nước đang tiếp tục độc quyền trong một số lĩnh vực chủ yếu
của nền kinh tế, Hiến pháp chỉ công nhận quyền quản lý tự chủ theo quy
định của pháp luật. Tuy nhiên các cam kết của WTO buộc Chính phủ không
được can thiệp vào việc quản lý của bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào.
Mặc dù trên thực tế để kiểm tra việc thực hiện các cam kết của Trung
Quốc là rất khó nhưng dù sao chính phủ cũng đã bị ràng buộc về mặt pháp
lý. Điều này trước đây chưa từng đề cập trong pháp luật Trung Quốc. Tóm
lại với cam kết về nền kinh tế thị trường Hiến pháp và một số các văn
bản pháp luật trong nước của Trung Quốc đã phải sửa đổi và bổ sung nhằm
đảm bảo sự phù hợp với cam kết.
2.2. Tác động đến các văn bản pháp luật về thương mại
a) Tác động đến các văn bản pháp luật về thương mại quốc tế
Nhằm tự do hoá chế độ thương mại quốc tế và có được
chế độ phù hợp với yêu cầu của WTO, Trung Quốc cam kết cắt giảm hàng rào
thuế quan và phi thuế quan trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, mở rộng
một số lĩnh vực dịch vụ quan trọng nhất cho nhà đầu tư nước ngoài. Về
mặt thể chế, chính phủ Trung Quốc đã chuyển dịch dần từ việc quản lý
trực tiếp đối với thương mại sang vai trò của người điều chỉnh. Trên
phương diện pháp lý, những luật chính điều chỉnh hoạt động thương mại
quốc tế bao gồm luật ngoại thương, luật hải quan, luật và các quy định
về tiêu chuẩn sức khoẻ và kỹ thuật, sở hữu trí tuệ và thủ tục hành chính
đều được sửa đổi để đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu của WTO. Kết quả là,
Trung Quốc hiện nay đang duy trì một chế độ ngoại thương tự do hơn so
với một số nước đang phát triển khác. Ngoài ra, để bảo hộ nền sản xuất
trong nước, Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp trừng phạt thương
mại và các biện pháp phi thuế quan khác trong thương mại.
Luật Ngoại thương năm 1994 được sửa đổi, bổ sung năm
2004 được coi là bước phát triển quan trọng nhất làm thay đổi chế độ
thương mại quốc tế của Trung Quốc. Trung Quốc cam kết cho phép tất cả
các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động mua bán hàng
hoá quốc tế trừ danh mục một số mặt hàng cụ thể là đối tượng của kinh
doanh nhà nước trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập. Luật sửa đổi nhằm
thực thi các cam kết có hiệu lực vào ngày 01/07/2004, 6 tháng trước lộ
trình. Việc sửa đổi này đã thay thế hệ thống cấp phép bằng hệ thống đăng
ký khi thực hiện các hoạt động ngoại thương ở Trung Quốc. Theo hệ thống
mới, bất kỳ cá nhân hay thể nhân trong nước hay nước ngoài muốn tham
gia vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá hoặc công nghệ ở Trung Quốc
chỉ phải hoàn tất các thủ tục đăng ký nhất định với Bộ Thương mại Trung
Quốc. Tài liệu đăng ký chủ yếu nhằm mục đích xác nhận và Bộ Thương mại
Trung Quốc phải hoàn tất thủ tục đăng ký trong vòng năm ngày kể từ khi
nhận được đầy đủ giấy tờ đăng ký. Có thể nói hệ thống thương mại này là
một ví dụ của việc chuyển đổi vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế
Trung Quốc – Chính phủ chuyển từ vai trò người điều hành trực tiếp các
hoạt động ngoại thương sang vai trò người điều chỉnh hệ thống thương mại
dựa trên cơ sở thị trường. Việc tự do hoá quyền thương mại gắn liền với
lĩnh vực phân phối nội địa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
(Xin xem thêm phần dưới)
b) Tác động đến các văn bản pháp luật về thuế quan, hạn ngạch và thương mại nhà nước
Theo cam kết về tiếp cận thị trường với WTO, Trung
Quốc chịu mức thuế ràng buộc rất thấp. Năm 2005, tỷ lệ MFN trung bình
cho nhập khẩu được áp dụng là 9,7% so với mức 39,5% vào năm 1994. Đối
với xuất khẩu, Trung Quốc cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu trừ một số hàng
hoá cụ thể. Hàng rào phi thuế quan cũng được giảm bớt. Trước khi gia
nhập WTO, Trung Quốc đã duy trì việc hạn chế số lượng chủ yếu sử dụng
hạn ngạch, cấp phép, và hoạt động thương mại nhà nước. Sau khi gia nhập,
Trung Quốc đã xoá bỏ hạn ngạch nhập khẩu, giảm các dòng thuế là đối
tượng của cấp phép đến một nửa. Trong khi mức độ hoạt động thương mại
nhà nước không có nhiều thay đổi nhưng hoạt động của họ trở nên minh
bạch hơn. Hàng hoá là đối tượng của kinh doanh nhà nước đã được liệt kê
trong nghị định thư gia nhập và việc sửa đổi danh mục hàng hoá cũng như
các doanh nghiệp được quyền kinh doanh những mặt hàng đó được Bộ Thương
mại đăng tải công khai và thông báo cho WTO.
c) Tác động đến các văn bản pháp luật về tiêu chuẩn kỹ thuật và sức khỏe
Các hàng rào phi thuế quan mà Trung Quốc thường xuyên
sử dụng là các tiêu chuẩn kỹ thuật và sức khoẻ đối với hàng hoá xuất
nhập khẩu. Tiêu chuẩn kỹ thuật được tạo ra nhằm mục đích đảm bảo chất
lượng và độ an toàn của sản phẩm hoặc bảo vệ con người, động thực vật
hoặc môi trường. Tuy nhiên các tiêu chuẩn kỹ thuật này lại tạo ra hàng
rào thương mại nhằm hạn chế việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu do chúng được
áp dụng tuỳ tiện và phân biệt đối xử. Vì lý do này mà WTO yêu cầu các
quy định về kỹ thuật và sức khỏe trong nước không được tạo ra những hạn
chế thương mại, nhằm đảm bảo mục tiêu chính đáng và không được áp dụng
với cách thức có thể dẫn đến sự tuỳ tiện và phân biệt đối xử giữa các
nước. Các thành viên WTO có nghĩa vụ sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế hiện
có và liên quan làm cơ sở cho các tiêu chuẩn của quốc gia mình. Các quy
định về tiêu chuẩn cụ thể được quy định tại Hiệp định của WTO về hàng
rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) và việc áp dụng các biện pháp vệ
sinh dịch tễ (SPS).
Sau khi gia nhập, Trung Quốc đã sửa đổi một số luật
và quy định liên quan nhằm đảm bảo sự phù hợp với WTO và cơ cấu lại các
cơ quan trung ương chịu trách nhiệm quản lý và thực thi các quy định về
kỹ thuật và sức khỏe. Hoạt động thiết lập và áp dụng tiêu chuẩn cũng
ngày càng được các đối tác thương mại của Trung Quốc quan tâm. Hiện nay,
phần lớn các tiêu chuẩn của Trung Quốc không dựa vào các tiêu chuẩn
quốc tế. Có rất nhiều lời phàn nàn về thủ tục rườm rà, tốn kém, phiền
toái cho việc đăng ký sản phẩm, cấp phép và chứng nhận sản phẩm nhằm hạn
chế việc xuất khẩu và nhập khẩu. Hơn thế nữa, trong những năm gần đây
Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn của riêng mình trong các
lĩnh vực mà thế giới đã có những tiêu chuẩn được công nhận từ lâu, một
ví dụ điển hình là tiêu chuẩn an ninh WAPI của Trung Quốc cho mạng không
dây LAN.
d) Tác động đến các văn bản pháp luật về các biện pháp thương mại
Trung Quốc trong thời gian vừa qua sử dụng khá nhiều
các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ để bảo vệ các
ngành công nghiệp trong nước khỏi sự cạnh tranh nước ngoài. Chống bán
phá giá (ví dụ bán sản phẩm ra nước ngoài với giá thấp hơn so với giá
trung bình) và việc trợ cấp của chính phủ được cho là những hoạt động
thương mại không công bằng. WTO cho phép các thành viên áp dụng thuế
chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm phá giá và trợ cấp
nếu phát hiện ra là chúng tạo ra hoặc đe doạ thiệt hại vật chất cho
ngành công nghiệp trong nước. Hơn thế nữa, WTO cho phép các nước thành
viên tiến hành các biện pháp bảo hộ (thuế quan và hạn ngạch) chống lại
việc nhập khẩu khi có sự đột biến trong nhập khẩu mà có thể đe doạ hoặc
gây thiệt hại cho nhà sản xuất trong nước và thậm chí khi không có hoạt
động thương mại công bằng liên quan. Quy định của WTO đối với các biện
pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và bảo hộ rất phức tạp và đã có
rất nhiều các tranh chấp WTO liên quan tới các biện pháp thương mại đã
xảy ra.
Trung Quốc đã ban hành quy định về chống bán phá giá
và chống trợ cấp đầu tiên vào năm 1997, sau đó đã được huỷ bỏ bởi hai
quy định riêng rẽ về các biện pháp chống bán phá giá và đối kháng và quy
định về bảo hộ đầu tiên vào năm 2001. Những quy định này nhìn chung đã
tuân thủ các tiêu chuẩn của WTO nhưng các điều khoản ít chi tiết hơn so
với các Hiệp định liên quan của WTO. Theo những quy định này, Bộ Thương
mại được giao là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm tiến hành các hoạt
động điều tra có liên quan và đưa ra quyết định về các biện pháp thương
mại.
Kể từ khi tiến hành điều tra chống bán phá giá đầu
tiên vào năm 1997, Trung Quốc đã trở thành nước đứng đầu trong việc sử
dụng các biện pháp chống bán phá giá trên thế giới. Trong suốt 4 năm đầu
tiên kể từ khi gia nhập, Trung quốc đã thực hiện 103 cuộc điều tra
chống bán phá giá và thực hiện các biện pháp thương mại trong 68 vụ.
Trung Quốc trở thành nước sử dụng các biện pháp chống bán phá lớn thứ ba
sau Ấn Độ và Hoa Kỳ. Hầu hết các cuộc điều tra tập trung vào các công
ty đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Châu Âu sau đó là Nga, Đài Loan,
Ấn Độ và một số nước khác. Tuy nhiên đáng chú ý là các bị đơn nước
ngoài đã giành thắng lợi một phần hoặc toàn bộ trong hơn 40% các vụ
kiện. Cho đến nay, Trung Quốc mới chỉ sử dụng một lần cơ chế tự vệ để
đáp lại thuế tự vệ của Hoa Kỳ đối với thép vào năm 2002. Gần đây, Trung
Quốc chưa tiến hành một cuộc điều tra đối kháng nào.
Cùng với các biện pháp về chống bán phá giá, đối
kháng và tự vệ, Luật Ngoại thương cho phép chính phủ thực hiện các biện
pháp thương mại khác dựa trên kết quả điều tra thương mại. Các điều tra
thương mại bao gồm các hàng rào thương mại ở các nước khác, hạn chế phân
biệt đối xử trong thương mại của các nước khác chống lại Trung Quốc,
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của thể nhân Trung Quốc ở các nước, các hoạt
động cạnh tranh không bình đẳng gây thiệt hại cho trật tự ngoại thương,
và các hoạt động thương mại khác ảnh hưởng tới lợi ích an ninh quốc
gia.
Khuynh hướng bảo hộ bằng các biện pháp thương mại
trong luật và thực tiễn ở Trung Quốc là điều hiển nhiên. Khi hàng rào
thuế quan và phi thuế quan bị giảm đi một cách đáng kể thì các ngành
công nghiệp trong nước sẽ phải tìm kiếm các hình thức bảo hộ thông qua
việc sử dụng những biện pháp thương mại mang tính hiếu chiến. Bên cạnh
đó, bản thân Trung Quốc cũng là nạn nhân của các biện pháp thương mại
này. Trong nhiều năm nay, Trung Quốc trở thành mục tiêu của các vụ kiện
về chống bán phá giá. Mỹ, Châu Âu và một số đối tác thương mại coi Trung
Quốc là một nước có nền kinh tế phi thị trường và Trung Quốc trở thành
đối tượng của hàng loạt vụ kiện chống bán phái giá bởi vì quy chế kinh
tế phi thị trường cho phép các nước nhập khẩu được loại bỏ giá trong
nước của Trung Quốc và thay vào đó sử dụng giá của nước thứ ba như là cơ
sở để quyết định giá thông thường cho sản phẩm nhập khẩu, chủ yếu dẫn
đến việc phát hiện bán phá giá của các nhà sản xuất Trung Quốc và áp
dụng mức thuế bán phá giá cao hơn so với hàng của Trung Quốc. Trung Quốc
cũng tỏ ra thất vọng khi việc gia nhập WTO không chấm dứt được tình
trạng này. Nghị định thư gia nhập của Trung Quốc cho phép các nước thành
viên tiếp tục đối xử với Trung Quốc là nền kinh tế phi thị trường trong
vòng 15 năm trong các vụ kiện về chống bán phá giá và một giai đoạn
không xác định trong các vụ kiện về đối kháng. Hơn thế nữa, trái với các
yêu cầu rõ ràng của WTO, các biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng trên cơ sở
không phân biệt đối xử, nghị định thư gia nhập cho phép các nước nhập
khẩu có thể loại bỏ sản phẩm của Trung Quốc vì lý do hạn chế nhập khẩu.
Các biện pháp tự vệ chống lại sản phẩm của Trung Quốc chỉ được sử dụng
trong vòng 12 năm, đối với hàng dệt may là vào cuối năm 2008.
e) Tác động đến các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ
Việc phát triển luật sở hữu trí tuệ của Trung Quốc có
liên hệ mật thiết với việc phát triển ngoại thương và đầu tư. Kể từ khi
Luật nhãn hiệu hàng hoá được ban hành năm 1982, Trung Quốc đã ban hành
rất nhiều luật và quy định liên quan tới hàng loạt đối tượng của quyền
sở hữu trí tuệ và gia nhập hầu hết các điều ước quốc tế về sở hữu trí
tuệ.
Hiệp định của WTO về các khía cạnh thương mại có liên
quan tới sở hữu trí tuệ (TRIPS) cung cấp khung pháp lý tổng thể cho
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định TRIPS đưa ra thủ tục nhất
định về dân sự, hành chính, hình sự và những biện pháp mà các thành viên
WTO cần phải thực hiện để đảm bảo quyền của chủ sở hữu theo pháp luật
trong nước. Nếu không tuân thủ TRIPS, quyền lợi của các bên sẽ được đảm
bảo thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và dẫn đến các trừng
phạt theo thẩm quyền của WTO.
Để đảm bảo sự tuân thủ với TRIPS, Trung Quốc đã nỗ
lực cả về pháp luật thực định và cả về thể chế. Về mặt lập pháp, các
luật chính về sở hữu trí tuệ đã được sửa đổi bao gồm luật sáng chế năm
2000, luật nhãn hiệu hàng hoá năm 2001, luật bản quyền năm 2001. Cũng
trong năm 2001, rất nhiều các quy định được ban hành bao gồm nghị định
về bảo vệ phần mềm máy tính, thiết kế bố trí mạch tích hợp và giống vật
nuôi mới. Cùng với các chế tài về hành chính và dân sự, một số tội danh
về vi phạm sở hữu trí tuệ cũng được bổ sung vào bộ luật hình sự. Về mặt
thể chế, hệ thống các cơ quan nhà nước đã được thiết lập để quản lý và
thực thi luật sở hữu trí tuệ bao gồm một cơ quan xét xử đặc biệt phụ
trách lĩnh vực sở hữu trí tuệ trong Toà án nhân dân. Kết quả của những
nỗ lực này, đến nay Trung Quốc được coi là đã có một khuôn khổ pháp lý
về cơ bản phù hợp với WTO trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Mặc dù có một khuôn khổ pháp lý phù hợp với WTO, việc
vi phạm sở hữu trí tuệ vẫn khá phổ biến ở Trung Quốc. Các đối tác
thương mại chính của Trung Quốc nhận xét đó là do thiếu sự phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước ở trung ương chịu trách nhiệm về việc thực thi sở
hữu trí tuệ; các hình phạt về hình sự, hành chính và dân sự chưa tạo ra
sự ngăn chặn thích đáng; cán bộ nhà nước chưa được đào tạo đầy đủ. Mặc
dù trong những năm gần đây, Chính phủ đã tăng cường nỗ lực thực thi
quyền sở hữu trí tuệ nhưng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn rất
yếu kém. Đó cũng chính là vấn đề hàng đầu mà các công ty nước ngoài đang
kinh doanh tại Trung Quốc phàn nàn.
2.3. Tác động đến các văn bản pháp luật về minh bạch hóa
Trung Quốc đã nỗ lực ban hành rất nhiều các văn bản
pháp luật nhằm thúc đẩy quá trình minh bạch hóa, đáng chú ý là “Luật cho
phép hành chính” có hiệu lực vào ngày 01/7/2004. Luật này đã đưa ra cơ
sở pháp luật, cơ quan và thủ tục cho việc cấp phép hành chính nhằm đảm
bảo việc áp dụng thống nhất hơn các biện pháp này và vì thế có thể thúc
đẩy minh bạch hóa. Cụ thể, Điều 5 quy định các điều khoản về cấp phép
hành chính phải được ban hành trước khi chúng được sử dụng để cấp phép,
trừ trường hợp có liên quan tới bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh hoặc
bí mật cá nhân, các kết quả giải quyết việc cấp phép phải được công bố
công khai. Điều 40 và Điều 61 cho phép công chúng có quyền biết các
quyết định cấp phép hành chính của các cơ quan hành chính và biên bản
cấp phép của cá nhân được cấp phép. Điều 30 quy định cơ quan hành chính
phải công bố công khai tại trụ sở của mình tất cả các vấn đề có liên
quan tới việc áp dụng và các biện pháp cấp phép bao gồm cả cơ sở của
việc ấp phép, yêu cầu, số lượng, thủ tục, thời hạn và loại tài liệu liên
quan tới việc cho phép cùng với mẫu đơn đăng ký. Cùng thời điểm này,
việc rà soát trên cả nước đã được thực hiện nhằm sàng lọc các thủ tục
cấp phép hiện có để tiêu chuẩn hóa hoạt động của các cơ quan hành chính
và thúc đẩy quá trình minh bạc hóa. Hơn thế nữa, Luật Ban hành văn bản
pháp luật có hiệu lực vào ngày 01/07/2000 quy định rằng cơ quan ban hành
các văn bản pháp luật phải lấy ý kiến của các cơ quan và tổ chức thông
qua hội thảo, hội nghị. Dự thảo các văn bản pháp luật cũng phải lấy ý
kiến của nhân dân trên công báo hoặc báo. Hơn thế nữa, các Bộ và chính
quyền địa phương phải có hệ thống thông tin công bố của mình.
Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, việc tham gia của
công chúng vào quy trình lập pháp ngày càng tích cực hơn và vì thế minh
bạch hóa ngày càng được nâng cao. Nhìn chung các luật quy định sẽ có
hiệu lực sau khi được ban hành một thời gian và tất cả các luật, quy
định liên quan tới thương mại đều được đăng công khai tại Tạp chí hợp
tác kinh tế thương mại Trung Quốc. Điểm hỏi đáp và trang web hỏi đáp
được thiết lập tại Bộ MOFCOM và AQSIQ. Trung Quốc thực hiện chế độ thông
báo thường xuyên với WTO. Hơn thế nữa, Vụ Công tác pháp luật của Ủy ban
thường vụ Quốc vụ viện Trung Quốc thường biên tập và dịch các luật ra
tiếng Anh. Đồng thời, Vụ Các vấn đề pháp luật của Hội đồng Nhà nước cũng
biên tập và đăng các văn bản luật và quy định liên quan tới thương mại.
Việc nâng cao minh bạch hóa và chống lại nạn tham
nhũng cũng được thực hiện ở ngành kiểm sát và cơ quan kiểm toán nhà
nước. Ví dụ, năm 2004, cơ quan kiểm sát đã tiến hành điều tra 2.900 cán
bộ nhà nước phạm tội tham nhũng trên phạm vi cả nước. Trong thời gian
gần đây việc kiểm toán của Văn phòng kiểm toán nhà nước cũng là một bộ
phận thông tin để kiểm sát có thể tiến hành điều tra và việc kiểm toán
của Quốc vụ viện Trung Quốc luôn được cập nhật trên mạng. Tháng 12/2003,
Chính phủ đã tham gia Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng.
Chính phủ cũng thúc đẩy việc sử dụng internet nhằm
nâng cao minh bạch hóa. Cuối năm 2004, đã có hơn 16.000 trang web chính
thức của các bộ, cơ quan và tổ chức của Hội đồng nhà nước cũng như chính
quyền địa phương. Nhìn chung các biện pháp hành chính và lập pháp của
chính quyền trung ương và địa phương thường được đăng tải thường xuyên
trên internet. Việc lấy ý kiến của công chúng vào các dự thảo văn bản
pháp luật cũng thường được đăng trên mạng internet.
2.4. Tác động đến việc xem xét lại của toà án đối với các quyết định hành chính
WTO yêu cầu các nước thành viên phải có một cơ quan
xét xử độc lập bao gồm cả tư pháp và hành chính cũng như phải duy trì
các thủ tục xét lại các quyết định hành chính liên quan tới thương mại
nhằm đảm bảo rằng các biện pháp của Chính phủ đối với thương mại phải
được điều hành hợp lý, khách quan và không phân biệt đối xử. Nghị định
thư gia nhập của Trung Quốc quy định cơ quan xét xử phải là cơ quan độc
lập với cơ quan thực thi hành chính và không có bất kỳ quyền lợi nào
liên quan tới các kết quả của vấn đề. Hơn thế nữa, Nghị định thư gia
nhập cũng yêu cầu Trung Quốc phải cho các bên bị ảnh hưởng bởi quyết
định hành chính có cơ hội được khởi kiện ra cơ quan tư pháp trong mọi
trường hợp. Đây là một yêu cầu được cho là vượt quá các nghĩa vụ chung
của WTO và chính vì vậy mà việc khởi kiện các quyết định hành chính này
phải được thực hiện bằng văn bản.
Trước đây theo luật của Trung Quốc thì các quyết định
hành chính liên quan tới một số lĩnh vực thương mại nhất định bị loại
khỏi việc xem xét của toà án bao gồm các quyết định liên quan tới hiệu
lực của sáng chế, thương hiệu và các quyết định trong các vụ kiện về phá
giá và đối kháng. Để thực thi cam kết trong WTO, Trung Quốc đã sửa đổi
một số các văn bản pháp luật liên quan để cho phép quyền khởi kiện đến
toà án đối với các vấn đề liên quan tới WTO. Hơn thế nữa, Toà án tối cao
cũng ban hành ba bộ tài liệu về giải thích pháp luật nhằm làm rõ phạm
vi và tiêu chuẩn cho các xem xét của toà án đối với các quyết định hành
chính liên quan tới WTO. Trong số đó, Toà án nhân dân tối cao cũng trao
quyền cho toà trung thẩm xử sơ thẩm đối với các vụ kiện về thương mại,
chống bán phá giá và đối kháng. Đây là động thái nhằm đảm bảo sự công
bằng và chất lượng của các phán quyết đối với các vấn đề liên quan tới
WTO bởi vì các thẩm phán ở toà cấp cao ít bị sự can thiệp của bên ngoài
cũng như có trình độ hơn so với các thẩm phán ở toà cơ sở. Tuy nhiên với
một số ít các vụ kiện được công bố thì vẫn còn quá sớm để đưa ra nhận
xét về việc xem xét của toà án đối với các vụ kiện liên quan tới WTO.
2.5. Tác động đến việc quản lý nhà nước
Trong báo cáo gia nhập, Trung Quốc cam kết sẽ áp dụng
và thực hiện các luật, quy định và biện pháp bao gồm các các biện pháp ở
địa phương một cách thống nhất, công bằng và hợp lý. Cụ thể Trung Quốc
cam kết sẽ huỷ bỏ các quy định và biện pháp của các địa phương không phù
hợp với các nghĩa vụ của Trung Quốc trong WTO. Trung Quốc cũng đồng ý
thành lập cơ chế khởi kiện mà theo đó các bên tư có thể kiện cơ quan nhà
nước về việc áp dụng chế độ thương mại không thống nhất, cơ quan nhà
nước có trách nhiệm phải giải quyết ngay và đưa ra biện pháp trừng phạt
trong trường hợp này. Những cam kết đặc biệt này nhằm chống lại chủ
nghĩa bảo hộ địa phương mà đó là một trong những hàng rào chính về
thương mại và đầu tư ở Trung Quốc.
Kể từ sau khi gia nhập, những biện pháp mà Trung Quốc
thực thi các cam kết này vẫn chưa được thể hiện rõ. Tuy nhiên, một điều
rõ ràng là Trung Quốc đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề liên quan
tới chủ nghĩa địa phương. Trong thời gian gần đây, các nhà lãnh đạo của
Trung Quốc đã thông qua một chiến lược cải cách quan trọng trong đó
chính quyền địa phương sẽ được linh hoạt hơn trong việc thông qua các
biện pháp cần thiết nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP và cho phép được hưởng
lợi trực tiếp từ sự phát triển này. Kết quả là chính phủ địa phương đã
tham gia khá nhiều trong việc đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp
địa phương. Nhằm thúc đẩy các quyền lợi kinh tế của họ, chính quyền địa
phương sẽ trợ cấp cho các doanh nghiệp địa phương hoặc bảo vệ họ đối với
cạnh tranh bên ngoài. Họ có rất ít động lực để thực thi luật về sở hữu
trí tuệ nếu các doanh nghiệp địa phương hưởng lợi từ việc vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ.
Việc xét xử của toà án địa phương mà một bên là quyền
lợi kinh tế địa phương sẽ rất khó để có một phán quyết công bằng, độc
lập. Mối quan hệ chặt chẽ giữa quan chức địa phương và doanh nghiệp địa
phương là rào cản đối với việc đấu tranh chống tham nhũng.
Về nguyên tắc các quy định của WTO sẽ được áp dụng
thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ của nước thành viên WTO. Các nước thành
viên có trách nhiệm đối với những vi phạm do cơ quan của mình thực
hiện. Hiệp định của WTO cho phép các thành viên được khởi kiện ra cơ
quan tài phán của WTO đối với các biện pháp do chính quyền địa phương
của nước thành viên khác thực hiện. Chính vì vậy, nếu chính phủ Trung
Quốc không quyết tâm hơn trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa bảo hộ địa
phương thì các thành viên khác sẽ có cơ sở để khởi kiện lên WTO.
Tóm lại, gia nhập WTO đã đem lại những thay đổi lớn
về chế độ đầu tư và thương mại nước ngoài cho Trung Quốc. Những thay đổi
này đã làm giảm bớt những hàng rào trong đầu tư và thương mại của Trung
Quốc đồng thời cũng thúc đẩy các chính sách và hệ thống pháp luật liên
quan tới thương mại. Có thể nói, hệ thống pháp luật và tư pháp của Trung
Quốc đã bắt đầu cởi mở hơn và dần phù hợp với các tiêu chuẩn của WTO kể
từ sau khi gia nhập WTO./.
Bùi Hương Quế – Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp
[1] Nghị định thư gia nhập, mục 9 phụ lục 4 của
Nghị định thư liệt kê danh mục hàng hoá và dịch vụ là đối tượng quản lý
giá. Bao gồm (i) bốn loại hàng hoá là thuốc lá, muối ăn, ga và dược phẩm
và bốn lĩnh vực dịch vụ là dịch vụ công ích, dịch vụ bưu chính viễn
thông, vé vào cửa tại các điểm du lịch, dịch vụ giáo dục là các đối
tượng chịu sự quản lý giá của chính phủ; và (ii) 6 loại hàng hoá bao gồm
(ngũ cốc, dầu thực vật, dầu chế biến, phân, kén tằm và cotton) và 6
lĩnh vực dịch vụ (dịch vụ vận chuyển, dịch vụ chuyên môn, dịch vụ đại lý
hoa hồng, dịch vụ ngân hàng, giá nhà cho thuê và các dịch vụ liên quan
tới sức khoẻ vẫn thuộc đối tượng hướng dẫn giá của nhà nước. Hơn thế nữa
Trung Quốc bị yêu cầu phải cố gắng giám sát và hạn chế việc kiểm soát
giá này và không được mở rộng việc kiểm soát giá ngoài những hàng hoá và
dịch vụ được liệt kê tại phụ lục 4 trừ trường hợp ngoại lệ và phải
thông báo cho WTO.
[2] Nghị định thư, mục 5.1 và 5.2. Doanh nghiệp
nhà nước được nhập khẩu 84 sản phẩm trong 7 loại hàng hoá (bao gồm ngũ
cốc, dầu thực vật, đường, thuốc lá, dầu chế biến, phân hoá học và
cotton) và xuất khẩu 134 sản phẩm nông nghiệp và hàng hoá như chè, ngũ
cốc, kim loại, than, dầu, lụa và cotton. Xem Phụ lục 2 của Nghị định
thư.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment