LÊ DUY
Từ khi tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
thành lập, Trung Quốc đã nỗ lực không ngừng để thiết lập hệ thống các
biện pháp khắc phục thương mại thông qua những thay đổi về cơ cấu tổ
chức và luật pháp. Bằng những thay đổi này, Trung Quốc có thể làm chi
tiết hơn các điều khoản chống bán phá giá của WTO bao gồm cả điều khoản
định nghĩa về ngành sản xuất nội địa. Hơn nữa, nhìn chung các biện pháp
mang tính thủ tục đã được tăng cường trong hệ thống các biện pháp chống
bán phá giá của Trung Quốc.
Cho dù đã có những cải thiện tổng thể hệ thống biện pháp khắc phục thương
mại của Trung Quốc thì vấn thiếu khái niệm về một số thuật ngữ luật
quan trọng bao gồm khái niệm “các nhà sản xuất có liên quan”, “tiêu
chuẩn nhập khẩu không đáng kể” và các yếu tố điều chỉnh để có sự so sánh
công bằng giữa giá thông thường và giá xuất khẩu và một số vấn đề về
luật liên quan đến các cam kết về giá và hệ thống các biện pháp đối
kháng vẫn đang tiếp tục được giải quyết. Trung Quốc sẽ tiếp tục nhiệm vụ
làm minh bạch và cải thiện các quy định thương mại của mình.
Trong nỗ lực gia nhập tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) và do áp lực từ phía các đối tác thương mại, Trung Quốc đang từng
bước cải cách và hiện đại hoá hệ thống các luật lệ thương mại của mình.
Do Trung Quốc thúc đấy quá trình tự do hoá thị trường sau khi WTO được
thành lập nên các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong thương mại
đã được nới lỏng. Vì vậy Trung Quốc cần bảo hộ các ngành sản xuất nội
địa không thể cạnh tranh được với các nhà xuất khẩu nước ngoài và đưa ra
các biện pháp để khắc phục thiệt hại mà các doanh nghiệp trong nước
phải gánh chịu do thương mại bất bình đẳng. Do đó Trung Quốc đã rất nỗ
lực để thiết lập nên hệ thống các biện pháp khắc phục thương mại trong
các quy định thương mại vừa mới được ban hành của mình.
Nguồn luật chính điều chỉnh các mối quan hệ trong
ngoại thương của Trung Quốc là Luật Ngoại Thương của CHDC ND Trung Hoa.
Luật này có 11 chương bao gồm các điều khoản chung, thương nhân ngoại
thương, xuất nhập khẩu hàng hoá và công nghệ, thương mại quốc tế trong
dịch vụ, bảo hộ các lĩnh vực khác liên quan đến thương mại như quyền sở
hữu trí tuệ, trật tự trong ngoại thương, các cuộc điều tra ngoại thương,
biện pháp ngoại thương, xúc tiến ngoại thương, trách nhiệm pháp lý và
các điều khoản thi hành. Các quy định về chống bán phá giá thuộc chương
về các biện pháp khắc phục ngoại thương.
Để cụ thể hoá các quy định về các biện pháp khắc phục
thương mại, năm 1997 Hội đồng nhà nước Trung Quốc đã ban hành các quy
định và thủ tục kiện chống bán phá giá và đối kháng, gọi là các quy định
về chống bán phá giá và chống trợ cấp của CH DCND Trung Hoa (thường
được gọi là Quy định cũ). Khi các quy định này được soạn thảo, trong các
quy định liên quan đến chống bán phá giá chỉ duy nhất Trung Quốc là vẫn
bảo hộ các doanh nghiệp của mình trong các cuộc điều tra chống bán phá
giá do các thành viên của WTO tiến hành. Cho đến tận cuối năm 1997 Trung
Quốc mới khởi xướng cuộc điều tra chống bán phá giá đầu tiên đối với
giấy in báo. Do vậy, dù các quy định được soạn thảo bằng cách tham khảo
Hiệp định các biện pháp đối kháng, chống trợ cấp và chống bán phá giá
của WTO thì rất nhiều điều khoản trong đó khá chung chung, hầu như không
hướng dẫn về việc áp dụng các quy định vào thực tế như thế nào. Hơn
nữa, một số điều khoản trong đó khác với trong các hiệp định của WTO.
Trong suốt quá trình đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc, một số thành
viên WTO lo ngại rằng hệ quả của việc áp dụng các điều khoản này là các
cuộc điều tra về các biện pháp khắc phục thương mại mà chính quyền Trung
Quốc tiến hành sẽ không phù hợp với các quy định của WTO nếu như Trung
Quốc trở thành thành viên của WTO.
Việc Trung Quốc cam kết thay đổi luật và các quy định
thương mại theo hướng phù hợp với các Hiệp định của WTO là một phần
trong tiến trình gia nhập. Theo đó, Trung Quốc phải bãi bỏ các quy định
cũ và ban hành hai quy định mới là “Các quy định về chống bán phá giá”
và “Các quy định về chống trợ cấp” bằng cách tách các vấn đề về chống
bán phá giá ra khỏi các vấn đề về trợ cấp đối kháng. Các quy định này có
hiệu lực từ 01/01/2002 ngay sau khi lộ trình gia nhập vào WTO được Quốc
hội Trung Quốc phê chuẩn. Quy định mới về chống bán phá giá được đưa ra
một cách toàn diện và cụ thể với 59 điều khoản trong 6 chương. Các quy
định này được chi tiết hoá bởi rất nhiều các quy định tạm thời do MOFTEC
và Hội đồng nhà nước về Thương mại và Kinh tế (SETC) ban hành.
Theo Điều 71 Hiến pháp Trung Quốc, đối với các vấn đề
thuộc quyền hạn của chính quyền, các bộ, các uỷ ban và các cơ quan ban
ngành khác của Nhà nước có thể ban hành các quy định phù hợp với luật
quốc gia, các quyết định và chỉ thị mang tính hành chính của Hội đồng
nhà nước. Trong thực tế các quy định này tồn tại dưới hình thức các quy
định tạm thời do chưa có một luật hay quy định hành chính hiện hành nào
phù hợp hoặc do Quốc hội hay Uỷ ban Nhà nước chưa sẵn sàng soạn thảo
luật cho một vấn đề cụ thể nhưng các quy định lại trở nên rất cần thiết.
Người ta dự định rằng các quy định tạm thời sẽ dần được thay thế bởi
các luật cụ thể hay các quy định hành chính.
Theo Nghị quyết của Quốc hội về Cải cách thể chế của
Uỷ ban nhà nước và thông báo của Uỷ ban Nhà nước về cơ cấu tổ chức thì
Chính phủ Trung Quốc phải xem xét kỹ lưỡng việc cơ cấu lại then chốt vào
tháng 03/2003. Do vậy Bộ Thương mại (MOFCOM) được thành lập để đảm nhận
trách nhiệm của MOFTEC và SETC, trong đó có vai trò điều chỉnh bán phá
giá và trợ cấp. Về thay đổi cơ cấu tổ chức, Quy định về chống bán phá
giá và chống trợ cấp đã được sửa đổi vào tháng 3/2004 và có hiệu lực từ
01/06/2004. Quy định về chống bán phá giá năm 2004 bao gồm nhiều vấn đề
từ xác định việc bán phá giá, tính toán biên độ, xác định thiệt hại, quy
trình điều tra, thuế chống bán phá giá, cam kết về giá, rà soát cuối kỳ
và thông báo. Vào tháng 10/2003, MOFCOM đã ban hành “Quy định về thiệt
hại ngành trong cuộc điều tra chống bán phá giá” và “Quy định về thiệt
hại ngành trong cuộc điều tra chống trợ cấp”.
Bài viết này sẽ phân tích hệ thống luật chống bán phá
giá của Trung Quốc tập trung vào các vấn đề mang tính quy trình. Để làm
được việc này thì Luật Ngoại Thương, Quy định chống bán phá giá, các
quy định tạm thời và các quy định của MOFCOM sẽ được đưa ra xem xét.
Những quy định mang tính quy trình thuộc các luật và quy định này sẽ
được so sánh với Hiệp định chống bán phá giá của WTO để xem xét xem liệu
luật và quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc có phù hợp với các
quy định của WTO hay không.
a. Đơn xin điều tra và vai trò của các ngành sản xuất nội địa
Luật Ngoại thương của Trung Quốc trao quyền được tiến
hành các cuộc điều tra chống bán phá giá cho một cơ quan ngang bộ thuộc
Hội đồng nhà nước chịu trách nhiệm về ngoại thương. Theo Nghị quyết của
Quốc hội về cải cách thể chế nhà nước và Thông báo của Hội đồng nhà
nước về cơ cấu tổ chức thì công việc này đang được MOFCOM đảm nhiệm, cơ
quan này có thể tự tiến hành điều tra hoặc điều tra khi nhận được đơn
kiện của ngành sản xuất nội địa. Quy định về chống bán phá giá của Trung
Quốc công nhận quyền khởi kiện của một ngành sản xuất nội địa, một cá
nhân, một pháp nhân hay một tổ chức có liên quan đại diện cho ngành sản
xuất nội địa đệ đơn lên MOFCOM xin tiến hành một cuộc điều tra chống bán
phá giá.
Quyền đệ đơn được đề cập trong các quy định tạm thời
về Tiến hành điều tra chống bán phá giá. Theo các quy định này thì một
đơn kiện phải do một ngành sản xuất nội địa hoặc tổ chức đại diện đưa ra
và khi đó cơ quan chức năng sẽ tiến hành điều tra chống bán phá giá nếu
các nhà sản xuất trong nước ủng hộ đơn kiện này có sản lượng sản phẩm
tương tự chiếm hơn 50% tổng sản lượng được sản xuất ra bởi tất cả các
nhà sản xuất trong nước đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện
và sản lượng sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất này chiếm ít nhất là
25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất trong
nước. Nếu ngành sản xuất nội địa sụp đổ và kéo theo một số lượng lớn các
nhà sản xuất khác thì MOFCOM sẽ xem xét lại vai trò của nguyên đơn bằng
các phương pháp thống kê lấy mẫu đang được sử dụng.
Theo các nguyên tắc và quy định tạm thời của Trung Quốc, thuật ngữ “ngành sản xuất nội địa” được hiểu là toàn bộ các nhà sản xuất sản phẩm tương
tự ở Trung Quốc hoặc một số nhà sản xuất trong đó có sản lượng sản phẩm
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng sản lượng sản phẩm đó trên cả nước và “tỷ lệ
lớn” này là hơn 50%. Một số nhà sản xuất trong nước sẽ không nằm trong
danh sách các nhà sản xuất nội địa nếu các nhà sản xuất này có liên quan
tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu sản phẩm này hoặc chính họ là các
nhà nhập khẩu hàng hóa hoặc các sản phẩm tương tự được bán phá giá.
Thêm vào đó, các quy định tạm thời bao gồm cả khái
niệm “khu vực sản xuất nội địa vùng”. Theo đó, những nhà sản xuất ở một
khu vực nhất định trong nước có thể được coi như một ngành sản xuất
riêng biệt (ngành sản xuất nội địa vùng) miễn là họ bán tất cả hoặc hầu
hết các sản phẩm tương tự ở khu vực thị trường đó, và các nhà sản xuất ở
những khu vực khác của Trung Quốc không đáp ứng đủ nhu cầu về sản phẩm
tương tự của thị trường này. Khi xác định một “ngành sản xuất nội địa
vùng” như vậy thì phải tính đến cả tình hình bán hàng và nhu cầu với sản
phẩm ở trong khu vực đó.
Một vài khía cạnh trong các quy định và luật lệ của
Trung Quốc có thể được đưa ra xem xét bằng cách so sánh với luật lệ của
WTO. Điểm phân tích đầu tiên là khái niệm ngành sản xuất nội địa. Làm
thế nào để định nghĩa khái niệm “ngành sản xuất nội địa” là một vấn đề
thiết yếu liên quan đến các vấn đề như vị trí, xác định thiệt hại, phạm
vi các loại sản phẩm chịu thuế chống bán phá giá. Theo Hiệp định chống
bán phá giá của WTO, thuật ngữ “ ngành sản xuất nội địa” dùng để chỉ các
nhà sản xuất sản xuất tất cả các sản phẩm tương tự hoặc các nhà sản
xuất có sản lượng sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng sản
phẩm tương tự sản xuất trong nước. Do thuật ngữ “tỷ trọng lớn” không
được định nghĩa trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO nên vẫn có
nhiều tranh luận khi thuật ngữ này được dịch ra.
Ví dụ như trong Vụ kiện chống bán phá gía sản phẩm
gia cầm của Argentina, Brazil đã kiện rằng do thuật ngữ “a major
proportion” cũng giống như “the majority” (có nghĩa là hơn 50%) nên
Argentina đã vi phạm quy định của WTO khi cho rằng ngành sản xuất nội
địa là những nhà sản xuất có tổng sản lượng chiếm hơn 46% tổng sản phẩm
nội địa và thu thập được những số liệu về thiệt hại liên quan đến các
nhà sản xuất này.
Chống lại đơn kiện này, Argentina (bên bị đơn), Mỹ và
EC (các bên thứ 3) lập luận rằng việc sử dụng thuật ngữ “a major
proportion” khác với “the major proportion”, “the major proportion”
không nhất thiết phải là một tỷ trọng lớn. Theo họ, “a major proportion”
có nghĩa là một tỷ trọng có ý nghĩa quan trọng mà không nhất thiết phải
là tỷ trọng lớn. Các lý do mà Hoa Kỳ và EC đưa ra cho việc dịch các
thuật ngữ này là:
(i) Thực tế là các nhà soạn thảo ra điều khoản về
ngành sản xuất nội địa đã nêu không rõ ràng về thuật ngữ “tỷ lệ 50%”
trái với điều 5.4 (tỷ lệ yêu cầu là 50%). Điều 5.4 chỉ ra rằng họ dự
định đưa ra một tiêu chuẩn khác.
(ii) Theo điều 5.4, một đơn kiện có thể được coi là
đại diện cho ngành sản xuất nội địa thậm chí nếu các nhà sản xuất ủng hộ
đơn này có sản lượng sản xuất ra chiếm dưới 50% tổng sản phẩm nội địa.
Vì thế cho nên ở điều 4.1, tỷ trọng chủ yếu có thể dưới 50%.
(iii) Điều 4.1 chỉ đề cập đến khái niệm “ngành sản xuất nội địa” và không đặt ra bất kỳ trách nhiệm nào cho các thành viên.
Trong khi khước từ khiếu nại của Mỹ rằng điều 4.1 chỉ
đơn thuần là một điều khoản nêu định nghĩa, thì Ban hội thẩm cũng tán
thành quan điểm của Mỹ và EC rằng chúng ta được phép định nghĩa “ngành
sản xuất nội địa” theo hướng là các nhà sản xuất trong nước mà chiếm giữ
tỷ lệ quan trọng, có ý nghĩa trong tổng sản phẩm nội địa.
Vấn đề này cũng đang được đưa ra tranh luận trong các
vòng đàm phán Doha. Thí dụ như Nhóm các nước chống bán phá giá đã đưa
ra quy định về ngưỡng 50%. Theo nhóm này thì nếu được chấp thuận tỉ lệ
này có thể tăng cường tính nhất quán trong việc xác định thiệt hại trong
quy trình điều tra chống bán phá giá. Cho dù quy định nào được áp dụng
thì Các quy định của Trung Quốc dường như vẫn phù hợp với các quy định
của WTO vì tỷ lệ hơn 50% chắc chắn là một tỷ lệ lớn. Quy định này là một
minh chứng cho sự rõ ràng về nghĩa trong các điều khoản của WTO.
Điểm phân tích thứ hai là trong khái niệm ngành sản
xuất nội địa không đề cập đến phạm vi của các nhà sản xuất. Hiệp định
chống bán phá giá của WTO cho phép loại trừ các thành viên của mình ra
khỏi phạm vi của ngành sản xuất nội địa mà được gọi là “các nhà sản xuất
có liên quan”, họ là các nhà sản xuất trong nước có liên quan tới các
nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính họ là những nhà nhập khẩu các
sản phẩm được cho là bán phá giá. Hiệp định này đưa ra định nghĩa cho từ
“có liên quan” mà sử dụng mối quan hệ với từ “kiểm soát” là tiêu chuẩn
chính như sau:
Các nhà sản xuất được cho là có liên quan tới các nhà
xuất khẩu hoặc nhập khẩu chỉ khi (a) một bên trực tiếp hoặc gián tiếp
kiểm soát bên kia; hoặc (b) cả hai bên đều bị kiểm soát trực tiếp hoặc
gián tiếp bởi một bên thứ 3; hoặc (c) cả hai trực tiếp hoặc gián tiếp
kiểm soát một bên thứ 3 miễn là có cơ sở để tin tưởng hay nghi ngờ rằng
ảnh hưởng của mối liên hệ như vậy khiến cho các nhà sản xuất có liên
quan cư xử khác với các nhà sản xuất không liên quan.
Theo các quy định của Trung Quốc, các cơ quan điều
tra có thể loại trừ các nhà sản xuất trong nước có liên quan tới các nhà
xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính họ là những nhà nhập khẩu sản phẩm
được cho là bán phá giá. Tuy nhiên nếu loại trừ quá mức thì sẽ tạo ra sự
thiếu nhất quán. Hiệp định của WTO cho phép loại trừ một số nhà sản
xuất có liên quan nhất định được đề cập trong Hiệp định chống bán phá
giá. Hiệp định này đặt ra 2 điều kiện để được xem là các nhà sản xuất có
liên quan: (i) sự tồn tại mối liên hệ kiểm soát; và (ii) bất kỳ lý do
nào để nghi ngờ rằng ảnh hưởng của mối liên hệ đó sẽ khiến cho các nhà
sản xuất có liên quan cư xử khác với các nhà sản xuất không liên quan.
Trong trường hợp mà việc loại trừ các nhà sản xuất có liên quan là một
yêu cầu quan trọng thì trách nhiệm chứng minh liệu các điều kiện này có
phù hợp trong một trường hợp cụ thể hay không thuộc về bên cố gắng loại
trừ một số các nhà sản xuất nhất định ra khỏi phạm vi của ngành sản xuất
nội địa với lý do là có sự tồn tại của mối liên hệ kiểm soát. Có nghĩa
là nếu một cơ quan điều tra đang cố gắng giới hạn ngành sản xuất nội địa
bằng cách loại trừ một số các nhà sán xuất trong nước nhất định thì cơ
quan này không những phải chỉ ra mối liên hệ kiểm soát tồn tại giữa các
nhà sản xuất và các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu mà còn phải đưa ra cơ
sở cho sự nghi ngờ rằng mối liên hệ này sẽ dẫn tới các cách cư xử khác
nhau của họ. Do vậy khi đưa ra quyết định về nhà sản xuất có liên quan
nếu cơ quan điều tra bỏ qua việc xem xét điều kiện hoặc đẩy trách nhiệm
chứng minh cho các nhà xuất khẩu hoặc cho bên đệ đơn thì họ đã vi phạm
các quy định có liên quan của WTO.
MOFCOM có thể định nghĩa thuật ngữ “các nhà sản xuất
có liên quan” theo nghĩa rộng hơn trong hiệp định của WTO. Điều này có
thể xảy ra khi điều kiện thứ hai không được xem xét tới hoặc khi chuyển
giao trách nhiệm chứng minh. Nếu được hiểu theo nghĩa rộng hơn thì bất
kỳ nhà sản xuất nào mà không có liên quan tới các nhà xuất khẩu hoặc
nhập khẩu cũng có thể được xem như các nhà sản xuất có liên quan và loại
trừ ra khỏi phạm vi của ngành sản xuất nội địa. Trong trường hợp không
có điều khoản định nghĩa cho thuật ngữ “ có liên quan” trong luật và các
quy định của Trung Quốc (mà trái ngược với hiệp định của WTO) thì sẽ
luôn luôn tiềm ẩn khả năng loại trừ quá mức và sự thiếu nhất quán với
quy định của WTO.
Điểm thứ ba là điều khoản về ngành sản xuất nội địa
vùng trong các quy định của Trung Quốc phù hợp với Hiệp định chống bán
phá giá của WTO ở chỗ là cả hai đều điều chỉnh các yếu tố như nhau (ví
dụ như tình hình kinh doanh và nhu cầu) được xem như các tiêu chí để
nhận biết một ngành sản xuất nội địa độc lập. Trong thực tế mặc dù hiếm
khi được MOFCOM sử dụng nhưng điều khoản này rất phù hợp khi được áp
dụng ở một lãnh thổ rộng lớn như Trung Quốc. Theo các quy định của WTO,
khi nhận biết một ngành sản xuất nội địa vùng thì thuế chống bán phá giá
sẽ được áp dụng chủ yếu với các sản phẩm trong diện nghi vấn được bán
để phục vụ cho việc tiêu dùng cuối cùng ở khu vực cụ thể. Các cơ quan có
thẩm quyền của Trung Quốc vẫn rất chú ý đến điều này khi đưa ra các
quyết định.
b. Tiến hành điều tra
Theo các quy định chống bán phá giá của Trung Quốc,
trong vòng 60 ngày kể từ khi có đơn kiện, MOFCOM phải xem xét nội dung
của đơn, chứng cứ và đơn có do ngành sản xuất nội địa hay đại diện của
họ đưa ra hay không, đồng thời quyết định có tiến hành điều tra hay
không. Trước khi đưa ra quyết định tiến hành điều tra MOFCOM phải thông
báo quyết định này cho chính phủ của nước xuất khẩu. Trách nhiệm thông
báo trước này phù hợp với quy định của Hiệp định chống bán phá giá của
WTO.
Trong trường hợp ngoại lệ, MOFCOM có thể tiếp tục tự
mình tiến hành một cuộc điều tra chống bán phá giá. Để làm được điều
này, MOFCOM phải đưa ra các chứng cứ đầy đủ về việc bán phá giá, thiệt
hại và mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố đó. Cơ chế tự điều tra và
các điều kiện phải phù hợp với quy định chống bán phá giá của WTO.
Theo các quy định của Trung Quốc, MOFCOM phải kết thúc điều tra khi xảy ra một trong các trường hợp sau:
(i) bên kiện rút đơn
(ii) không có đầy đủ chứng cứ về việc bán phá giá, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố đó.
(iii) biên độ phá giá dưới 2%
(iv) số lượng thực tế và ước tính của hàng nhập khẩu bị bán phá giá hoặc thiệt hại là không đáng kể
(v) các trường hợp khác mà MOFCOM cho là không thích hợp để tiếp tục điều tra chống bán phá giá.
Các căn cứ để kết thúc điều tra có vẻ phù hợp với các
quy định chống bán phá giá của WTO trong Hiệp định chống bán phá giá
của WTO quy định mức chuẩn biên độ phá giá tối thiểu là 2%. Tuy nhiên
vẫn nảy sinh các tranh luận xung quanh tiêu chuẩn “số lượng nhập khẩu
không đáng kể”. Theo quy định của WTO thì nếu lượng hàng hoá bán phá giá
nhập khẩu từ một nước nhất định chiếm dưới 3% lượng nhập khẩu hàng hóa
tương tự của nước nhập khẩu thì lượng hàng hoá nhập khẩu bán phá giá
được coi là không đáng kể, và cơ quan điều tra phải chấm dứt quá trình
điều tra. Trong Quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc thì mức
tiêu chuẩn lượng nhập khẩu 3% này được nêu ra trong Điều 9 về “đánh giá
tích lũy về bán phá giá” , trong khi đó một mức tiêu chuẩn như vậy lại
không được nêu ra trong Điều 27, điều khoản chung quy định về bất cứ
trường hợp nào mà hàng hoá nhập khẩu không đáng kể. Về lý thuyết, người
ta có thể nghi ngờ việc MOFCOM sử dụng mức tiêu chuẩn 3% khi đánh giá
lượng hàng nhập khẩu bán phá giá là không đáng kể chứ không cộng dồn
lượng hàng hoá bán phá giá được nhập khẩu từ nhiều nước. Do vậy nếu
MOFCOM tiến hành bất cứ cuộc điều tra nào hoặc không chấm dứt điều tra
thì sẽ là vi phạm các quy định của WTO cho dù lượng nhập khẩu hàng bán
phá giá từ một nước cụ thể chiếm dưới 3% lượng hàng nhập khẩu tương tự ở
Trung Quốc. Tuy nhiên trong thực tế MOFCOM đã chấp nhận mức chuẩn 3%
như một mức ngưỡng để xác định lượng hàng nhập khẩu không đáng kể trong
mọi trường hợp.
C. Xác định biên độ phá giá
Biên độ phá giá là mức độ chênh lệch giữa giá xuất
khẩu với giá thông thường của hàng nhập khẩu. Do vậy làm thế nào để so
sánh giá xuất khẩu với giá thông thường là một vấn đề quan trọng trong
việc xác định biên độ phá giá.
Theo Các quy định về chống bán phá giá của Trung
Quốc, MOFCOM có thể lựa chọn hai phương pháp so sánh sau: cách thứ nhất
là so sánh giá thông thường bình quân trọng số với giá trung bình trong
tất cả các giao dịch xuất khẩu có thể so sánh được (gọi là so sánh
“A-to-A”); cách thứ hai là so sánh giá thông thường với giá xuất khẩu
dựa trên cơ sở các giao dịch (gọi là so sánh “T-to-T”). Do các mức giá
xuất khẩu chênh lệch đáng kể giữa những người mua khác nhau, các khu vực
và khoảng thời gian khác nhau nên rất khó để so sánh bằng những phương
pháp này, khi đó có thể so sánh giữa giá thông thường bình quân và giá
trong những giao dịch xuất khẩu đơn lẻ (gọi là so sánh “A-to-T). Các
điều khoản này có được là do nỗ lực chi tiết hoá và cải thiện các điều
khoản trong quy định cũ mà trong đó chỉ đơn giản là so sánh giá xuất
khẩu với giá thông thường một cách hợp lý và công bằng.
Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, trong các
trường hợp ngoại lệ các cơ quan điều tra có thể áp dụng phương pháp so
sánh A-to-T. Nếu sử dụng phương pháp này thì cơ quan điều tra phải giải
thích nguyên nhân tại sao không áp dụng các phương pháp thông thường như
A-to-A hoặc T-to-T. Điều này có nghĩa là cơ quan điều tra có trách
nhiệm phải chỉ ra một trường hợp ngoại lệ.
Theo Quy định của Trung Quốc thì các cơ quan điều tra
có thể chấp nhận phương pháp A-to-T trong các trường hợp ngoại lệ nhưng
không có trách nhiệm trong việc đưa ra nguyên nhân. Do vậy trong rất
nhiều cuộc điều tra cơ quan điều tra đã đẩy trách nhiệm chỉ ra các
trường hợp ngoại lệ sang các nhà xuất khẩu hoặc các nhà sản xuất liên
quan tới cuộc điều tra. Hơn nữa theo các quy định về chống bán phá giá
của WTO thì Ban hội thẩm của WTO chỉ có thể xác định rằng thông tin mà
cơ quan điều tra đưa ra có chính xác và các đánh giá của họ về sự việc
đó có công bằng và khách quan hay không. Do vậy nếu WTO tranh luận về
việc áp dụng phương pháp A-to-T của MOFCOM thì bên khiếu nại sẽ không
những phải chỉ ra rằng không có trường hợp đặc biệt nào mà còn phải chỉ
rằng đánh giá về sự việc của MOFCOM (tức là phán quyết của MOFCOM là
không tồn tại trường hợp đặc biệt nào) là không công bằng và thiếu khách
quan. Đây là trách nhiệm nặng nề cho các nhà xuất khẩu hoặc sản xuất
liên quan đến cuộc điều tra chống bán phá giá. Nếu như MOFCOM áp dụng
phương pháp A-to-T mà không giải thích tại sao các phương pháp so sánh
thông thường không được áp dụng để làm làm rõ việc giá xuất khẩu chênh
lệch đáng kể giữa những người mua, những khu vực và khoảng thời gian
khác nhau, thì điều này là vi phạm các quy định của WTO.
Một vấn đề khác trong hệ thống luật của Trung Quốc là
cho dù đã sửa đổi những Quy định cũ nhưng hệ thống luật này vẫn không
chỉ rõ chúng ta phải xem xét những nhân tố điều chỉnh nào khi so sánh
một cách công bằng giá thông thường và giá xuất khẩu. Xem xét vấn đề
này, Hiệp định chống bán phá giá của WTO đã nêu rõ các nhân tố khác nhau
về thời gian và cấp độ giao dịch khi so sánh. Hiệp định còn giải quyết
vấn đề chuyển đổi tiền tệ và sự biến động của tỷ giá hối đoái. So sánh
cũng cho thấy rằng Quy định cũ của Trung Quốc có một nguyên tắc khá đơn
giản rằng “giá xuất khẩu và giá thông thường của một sản phẩm xuất khẩu
sẽ được so sánh công bằng và hợp lý với điều kiện là các nhân tố ảnh
hưởng tới khả năng so sánh về giá. Các nhân tố này là gì và làm thế nào
để xem xét chúng là những câu hỏi mà các cơ quan điều tra của Trung Quốc
đang băn khoăn. Sự cân nhắc này có thể không phù hợp với các quy định
của WTO.
D. Các cam kết về giá
Trong suốt quá trình điều tra chống bán phá giá, một
nhà xuất khẩu bán phá giá hàng hóa có đề xuất với MOFCOM một cam kết
nhằm thay đổi mức giá bán hoặc ngừng xuất khẩu hàng hoá bán phá giá. Cam
kết này được gọi là “cam kết về giá”. Điều khoản Cam kết về giá của
Trung Quốc định nghĩa như sau:
Thuật ngữ “Cam kết về giá” được đề cập đến trong các
quy định này là cam kết một cách tự nguyện của các nhà xuất khẩu và các
nhà sản xuất với MOFCOM, họ hưởng ứng cuộc điều tra chống bán phá giá
bằng cách thay đổi mức giá bán hoặc ngừng xuất khẩu hàng hóa đang được
điều tra chống bán phá giá để được MOFCOM chấp thuận đình chỉ hoặc chấm
dứt điều tra.
MOFCOM có thể
đưa ra đề xuất cam kết về giá nhưng không được ép buộc các nhà xuất
khẩu chấp thuận đề xuất đó. Thực tế là việc các nhà xuất khẩu hoặc các
nhà sản xuất không đưa ra một cam kết về giá hoặc không chấp thuận một
cam kết về giá được đề xuất có thể làm ảnh hưởng đến sự chính xác của
cuộc điều tra, việc xác định bán phá giá và biên độ phá giá. Nếu MOFCOM
cho rằng đề xuất cam kết về giá do các nhà xuất khẩu đưa ra có thể chấp
nhận được thì MOFCOM có thể quyết định đình chỉ hoặc kết thúc điều tra
chống bán phá giá mà không cần áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
tạm thời hay áp thuế chống bán phá giá. Quyết định đình chỉ hoặc kết
thúc điều tra phải được công bố. Nếu MOFCOM không chấp thuận đề xuất cam
kết về giá thì MOFCOM phải đưa ra được lý do không chấp thuận cho các
nhà xuất khẩu có liên quan. Nếu cơ quan điều tra không có kết luận sơ bộ
khẳng định có hiện tượng bán phá giá và việc bán phá giá này gây thiệt
hại thì sẽ không có các cam kết về giá.
Cho dù cuộc điều tra bị đình chỉ hay kết thúc thì
MOFCOM vẫn có thể tiếp tục điều tra chống bán phá giá và xác định thiệt
hại theo yêu cầu của nhà xuất khẩu hoặc nếu chính cơ quan này thấy cần
thiết phải như vậy. Căn cứ vào kết quả của cuộc điều tra, cam kết về giá
sẽ tự động chấm dứt nếu kết luận cuối cùng là không có việc bán phá giá
hoặc không có thiệt hại, nếu kết luận là ngược lại thì cam kết vẫn có
hiệu lực. MOFCOM có thể yêu cầu một trong số các nhà xuất khẩu chấp
thuận cam kết về giá định kỳ cung cấp thông tin và tài liệu liên quan
tới việc thực hiện cam kết về giá và xác minh những thông tin và tài
liệu này. Những yêu cầu của MOFCOM là cần thiết để giám sát tình hình
thực hiện các cam kết này.
Bên cạnh những điều khoản này thì trong các quy định
và luật lệ của Trung Quốc có rất nhiều các điều khoản chi tiết về quy
trình cam kết về giá. Hầu hết các quy định này không mâu thuẫn với Hiệp
định của WTO vì chúng điều chỉnh những vấn đề về quy trình mà Hiệp định
không đề cập tới.
Tuy nhiên có hai khía cạnh mà Quy định của Trung Quốc
không phù hợp với quy định của WTO. Thứ nhất là trong các quy định tạm
thời về cam kết giá thì MOFCOM có thể chỉ chấp thuận các đề xuất đưa ra
bởi các nhà xuất khẩu hợp tác hiệu quả trong suốt quá trình điều tra.
Theo Hiệp định của WTO, cam kết về giá đưa ra không nhất thiết phải được
chấp thuận nếu cơ quan điều tra cho rằng sự chấp thuận này là không hợp
lý hoặc vì lí do “chính sách chung” và khi từ chối thì cơ quan điều tra
phải đưa ra lý do cho các nhà xuất khẩu và cho họ cơ hội đóng góp ý
kiến.
Thiếu đi một chuẩn mực cho việc xác định rằng thế nào
là “hợp tác hiệu quả” và không có sự áp dụng phù hợp cho các trường hợp
thực tế nên sẽ rất khó khăn để nhận biết rằng lý do để từ chối một đề
xuất cam kết về giá là thiếu “sự hợp tác hiệu quả” có phù hợp với quy
định của WTO hay không. Thêm vào đó nếu cơ quan điều tra của Trung Quốc
không đưa ra cho các nhà xuất khẩu lý do từ chối hoặc không cho họ cơ
hội để đưa ra ý kiến, thì sẽ càng vi phạm các quy định của WTO. Trong
văn bản trả lời các câu hỏi của Mexico tại cuộc họp của Uỷ ban về thực
tiễn chống bán phá giá, Trung Quốc đã giải thích rằng nếu một công ty
không hợp tác trong quá trình điều tra thì sẽ rất khó khăn để xác định
rằng liệu cam kết về giá của công ty đó có được giám sát hiệu quả hay
không. Vì vậy Trung Quốc thấy rằng sẽ là không phù hợp nếu chấp thuận
những đề xuất như vậy. Tuy nhiên lý do này đưa ra là không thuyết phục
do không có sự tương quan cần thiết giữa cách cư xử của các công ty
trong suốt quá trình điều tra và quá trình thực hiện cam kết. Hơn nữa
điều 8.6 của Hiệp định chống bán phá giá cũng đã đưa cho cơ quan điều
tra chống bán phá giá các công cụ giám sát hữu hiệu đối với các nhà xuất
khẩu không hợp tác, chẳng hạn như quyền thu thập thông tin từ các nhà
xuất khẩu và áp dụng các biện pháp tạm thời, sử dụng thông tin tốt nhất
sẵn có trong trường hợp có sự vi phạm cam kết.
Thứ hai là theo Quy định chống bán phá giá của Trung
Quốc, nếu các nhà xuất khẩu vi phạm các thỏa thuận về cam kết giá thì cơ
quan điều tra của Trung Quốc có thể tiếp tục cuộc điều tra dựa trên các
thông tin sẵn có tốt nhất và quýêt định áp dụng các biện pháp tạm thời
và áp thuế chống bán phá giá có hiệu lực hồi tố lên các sản phẩm nhập
khẩu trong vòng 90 ngày trước khi áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá tạm thời, miễn là trước khi vi phạm cam kết các sản phẩm nhập khẩu
không bị áp thuế có hiệu lực hồi tố. Quy định “áp dụng hiệu lực hồi tố
90 ngày” này về cơ bản là phù hợp với các quy định của WTO.
Các Quy định tạm thời về cam kết giá quy định thêm
rằng nếu trong kết luận cuối cùng đưa ra mức thuế chống bán phá giá
chính thức thấp hơn mức đặt cọc trong kết luận sơ bộ, thì khoản chênh
lệch phải được hoàn lại. Điều khoản này phù hợp với nguyên tắc bồi hoàn
theo Hiệp định chống bán phá giá.
Tuy nhiên vấn đề nghiêm trọng về sự thiếu nhất quán
với các quy định của WTO là ở đoạn sau của quy định này cho biết “nếu
trong kết luận cuối cùng đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức
cao hơn mức đặt cọc trong kết luận sơ bộ thì khoản chênh lệch này vẫn bị
đánh thuế.”
Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, trong
trường hợp vi phạm cam kết về giá thì cơ quan điều tra có thể áp dụng
các biện pháp tạm thời với nguồn thông tin sẵn có tốt nhất. Trong những
trường hợp này, mức thuế chính thức áp dụng cho các sản phẩm tiêu dùng
không quá 90 ngày trước khi áp dụng các biện pháp tạm thời phải phù hợp
với Hiệp định. Một điều khoản khác của WTO quy định rằng “nếu thuế chống
bán phá giá chính thức cao hơn thuế tạm thời đã thu thì mức chênh lệch
sẽ không phải nộp bổ sung”. Điều khoản này không có ngoại lệ khi vi phạm
cam kết về giá.
Từ các quy định này của WTO, có thể kết luận rằng
trong trường hợp vi phạm cam kết về giá, bất kỳ khoản thu bổ sung nào
đối với các khoản chênh lệch (nếu thuế chống bán phá giá chính thức cao
hơn mức thuế tạm thời đã thu) sẽ không được coi là khoản thuế chính thức
phù hợp với Hiệp định của WTO. Việc thu bổ sung như vậy sẽ dẫn tới sự
vi phạm Hiệp định của WTO.
Quả thực là rất khó tìm ra một chính sách nào phù hợp
để thu những khoản chênh lệch như vậy từ nhà xuất khẩu hay nhà sản xuất
vi phạm cam kết. Thật không đúng khi các nhà xuất khẩu và nhà sản xuất
vi phạm cam kết bị ngăn cản làm việc này do việc truy thu thuế có hiệu
lực hồi tố. Các nhà xuất khẩu và sản xuất biết rằng trong trường hợp vi
phạm họ phải phụ thuộc vào sự bất lợi của những thông tin sẵn có và vì
vậy không có sự truy thu thuế có hiệu lực hồi tố nào có thể làm họ nản
lòng thêm. Nói cách khác việc ngay lập tức áp mức thuế tạm thời trên cơ
sở các thông tin sẵn có tốt nhất là đủ để chống lại việc vi phạm các cam
kết. Chúng ta chỉ nên áp dụng thêm biện pháp truy thu thuế có hiệu lực
hồi tố đối với các nhà xuất khẩu và sản xuất vi phạm cam kết mà hầu như
không thể bào chữa được.
Kết luận
Hệ thống luật pháp hiện đại của Trung Quốc từ sau khi
bắt đầu cải cách năm 1978 đã được hơn 25 năm. Các quy định khắc phục
thương mại của Trung Quốc chỉ bắt đầu hình thành sau khi WTO được thành
lập. Trong suốt khoảng thời gian ngắn ngủi này, Trung Quốc đã rất nỗ lực
để thiết lập nên hệ thống các biện pháp khắc phục thương mại của mình
thông qua những sự thay đổi về luật pháp và cơ cấu tổ chức. Trong khi sự
cải thiện tổng thể hệ thống các biện pháp khắc phục thương mại của
Trung Quốc là một bằng chứng rõ ràng thì vẫn thiếu các định nghĩa về một
số thuật ngữ luật chủ yếu và một số vấn đề về luật vẫn cần được giải
quyết và làm rõ. Tất nhiên sự im lặng trong luật và quy định của Trung
Quốc về bản chất là không vi phạm các nghĩa vụ của WTO. Ở nhiều phần
trong các luật và quy định của Trung Quốc như Điều 142 phần Các nguyên
tắc chung của Luật dân sự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Điều 9
trong Quy định về các vụ kiện hành chính trong thương mại quốc tế, nêu
ra rằng các luật trong nước của Trung Quốc phải được hiểu theo cách phù
hợp nhất với các giao ước quốc tế. Hơn nữa, chính phủ Trung Quốc thường
xuyên thể hiện rằng họ rất sẵn lòng tuân theo các quy định của WTO khi
không có điều khoản tương ứng nào ở các luật trong nước. Theo tuyên bố
về nguyên tắc hiểu các luật trong nước và cách diễn đạt ý chí chính trị,
Trung Quốc sẽ tiếp tục làm sáng tỏ và cải thiện các quy định thương
mại.
Dường như với sự thành lập của MOFCOM, Trung Quốc đã
hoàn thành các cải cách về tổ chức trong hệ thống các giải pháp khắc
phục thương mại. Như một tổ chức mới chịu trách nhiệm về các giải pháp
khắc phục thương mại, Bộ sẽ chấp thuận áp dụng các quy định mang tính
thủ tục thay thế các quy định tạm thời do MOFCOM và SETC ban hành. Trong
quá trình này, các vấn đề được đưa ra trong bài viết này sẽ phải được
giải quyết thích đáng để hệ thống luật minh bạch hơn và phù hợp hơn với
các chuẩn mực quốc tế.
Trên cơ sở quy mô của nền kinh tế Trung Quốc và tầm
ảnh hưởng của các chính sách khắc phục thương mại của Trung Quốc, vấn đề
này là thiết yếu và không chỉ tác động tới các doanh nghiệp và người
tiêu dùng nội địa Trung Quốc mà còn tới hầu hết cộng đồng kinh doanh
trên thế giới.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH – BỘ CÔNG THƯƠNG
0 comments:
Post a Comment