THIẾU TƯỚNG. PHẠM MINH CHÍNH – Tổng cục 5 Bộ CA
TS. VƯƠNG QUÂN HOÀNG – Đại học Tổng hợp Bruxelles (Bỉ)
Nếu nền kinh tế
quốc gia là một cơ thể sống, thì hệ thống tài chính là cơ chế tạo, cung
cấp và lưu thông máu tới từng tế bào, bộ phận. Thiếu hay thừa đều phát
sinh các vấn đề cần giải quyết. Với quá trình chuyển đổi kinh tế và hội
nhập quốc tế mạnh mẽ, liên tục giám sát, kịp thời dự đoán sát thực các
dấu hiệu và biến động của thị trường để từ đó xây dựng chính sách điều
tiết thị trường tài chính và toàn bộ nền kinh tế một cách hợp lý là việc
làm cần thiết bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững, đúng định hướng.
Đối với nền tài chính của Việt Nam, hiện đang tồn tại bảy dấu hiệu cảnh
báo cần được các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách quan tâm.
1 – Giảm dần tỷ lệ sở hữu nhà nước trong hệ thống tài chính
Quyền kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động
kinh tế vốn được xem như yếu tố có tính nhạy cảm. Nhưng những biến đổi
của nền kinh tế trong xu thế hội nhập ngày càng sâu sắc và áp lực cạnh
tranh ngày càng lớn đang tạo ra một sắc thái mới, đó chính là tỷ lệ giảm
dần của sở hữu nhà nước trong các tổ chức kinh tế. Không chỉ cổ phần
hóa các doanh nghiệp sản xuất, thương mại quốc doanh, trong lĩnh vực rất
trọng yếu là tín dụng – ngân hàng cũng diễn ra xu thế này.
Trước năm 1986, Việt Nam theo mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, mọi giao dịch tài chính (chính thức) đều do Nhà
nước thực hiện thông qua Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước vận hành
theo hệ thống một cấp (Ngân hàng Trung ương đảm nhiệm luôn chức năng
của các ngân hàng thương mại), thuộc sở hữu nhà nước 100% và do Nhà nước
trực tiếp quản lý, kiểm soát).
Đến năm 1988, chức năng kinh doanh ngân hàng được
tách khỏi Ngân hàng Nhà nước để giao cho các ngân hàng chuyên doanh. Hệ
thống ngân hàng hai cấp được hình thành, tạo nên các chuyển biến về tự
do tài chính, là điều kiện cho các hình thức sở hữu khác trong hệ thống
tài chính phát triển. Cùng năm, Nhà nước ban hành tạm thời các thể lệ
tín dụng, cho phép tất cả các tổ chức kinh tế được vay tiền và huy động
vốn từ công chúng (Quyết định số 18/NH-QĐ và 19/NH-QĐ ngày 27-4-1988).
Thị trường tài chính trong nước được tự do hóa gần như hoàn toàn.
Sau đó, số tổ chức tín dụng tăng rất nhanh. Năm 1989,
trên toàn quốc đạt con số 7.180 quỹ và hợp tác xã tín dụng. Tuy nhiên,
cuối năm 1989, hàng loạt các tổ chức tín dụng đổ bể và gây ra khủng
hoảng tài chính. Sau sự kiện nhiều dư chấn này, hai pháp lệnh về ngân
hàng được đưa ra trong năm 1990, nhằm củng cố hệ thống ngân hàng hai cấp,
bắt đầu hình thành các công cụ quản lý và điều hành tiền tệ. Tỷ trọng
tài sản tại các ngân hàng quốc doanh trong tổng tài sản của hệ thống
ngân hàng thương mại kể từ đây cũng giảm dần. Tỷ lệ này năm 1994 là 89%,
đến năm 1998 giảm xuống còn 82%; năm 2003 còn 74,6%; năm 2005 còn 71,5%
và năm 2006 còn 62,5%.
Từ năm 2007, hệ thống tài chính cũng được mở cửa theo
thỏa thuận gia nhập WTO. Các nhà đầu tư nước ngoài được phép mở ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam từ ngày 1-4-2007. Các ngân hàng và tổ chức
đầu tư nước ngoài đang tiến hành quá trình “thâu tóm cổ phần” các ngân
hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam. Giai đoạn 2007 – 2008, hoạt
động thâu tóm và sáp nhập (M&A) của các đối tác nước ngoài với tổ
chức tài chính Việt Nam tiếp tục phát triển sang khu vực tài chính –
chứng khoán. Morgan Stanley nắm 10% cổ phần Công ty Tài chính Dầu khí
(PVFC) và 48,33% Công ty chứng khoán Hướng Việt. Franklin Templeton
Investment mua 49% Công ty cổ phần (CTCP) Quản lý quỹ Đầu tư
Vietcombank. CTCP Chứng khoán Sài Gòn (SSI) – công ty chứng khoán lớn
nhất Việt Nam, có tỷ lệ sở hữu thuộc cổ đông nước ngoài là 21,78% (tính
tới ngày 24-7-2007), trong đó cổ đông tổ chức chiếm 20,93% với các tên
tuổi như: Japan Asia Investment Co. Ltd. và Ngân hàng ANZ. Vì vậy, dự
báo tỷ lệ sở hữu nhà nước trong hệ thống tín dụng – ngân hàng sẽ còn
tiếp tục giảm.
2 – Gian lận tài chính quy mô lớn và sử dụng công nghệ cao
Sự kiện “hỏng hóc” tín dụng giai đoạn 1989 – 1990 đã
cảnh tỉnh xã hội với rủi ro tài chính lần đầu tiên. Tuy vậy, tâm lý kỳ
vọng thu lợi nhanh chóng từ các khoản cho vay có lãi suất cao dựa trên
quan hệ cá nhân vẫn còn phổ biến. Đây cũng là mảnh đất cho các hoạt động
lạm dụng lòng tin nhằm lừa gạt và chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn quen
thuộc là tạo vẻ bề ngoài giàu có, kinh doanh phát đạt, có nhu cầu huy
động vốn để đầu tư mở rộng và sẵn sàng trả lãi suất cao. Các khoản vay
đầu tiên luôn được bảo đảm hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi để
tạo dựng uy tín. Bằng phương thức vay của người sau để trả cho người
trước, mạng lưới sẽ được mở rộng nhanh chóng. Cuối cùng, với lượng lớn
số tiền đã thu được, đối tượng tội phạm bỏ trốn để lại hàng trăm nghìn
nạn nhân hoặc hơn thế, nếu ở quy mô nghiêm trọng. Bên cạnh thiệt hại
kinh tế, sự bất ổn xã hội do loại tội phạm này tạo ra đã tăng lên rất
đáng kể. Nạn nhân thường không có đầy đủ hiểu biết về kinh tế, pháp
luật, số tiền cho vay hay góp vốn ngoài phần tiết kiệm tự có là đi huy
động từ người thân, bạn bè. Cũng không thể bỏ qua hiệu ứng lâu dài là hệ
quả tâm lý dây chuyền.
Trong nền kinh tế hiện đại cũng xuất hiện các hình
thức lừa đảo tín dụng mới, khai thác đặc tính hiệu suất và lan tỏa của
công nghệ thông tin. Vụ mạng “kinh doanh tiền tệ” Colony Invest cuối năm
2006 là một điển hình. Tự nhận là đại diện của công ty Colony Invest
Management Inc tại Mỹ, một số đối tượng giới thiệu hình thức giao dịch
đầu tư tài chính thông qua một số trang web như http://www.colonyinvest.net, http://www.callyinvest.com, http://www.money100.us, http://www.c-invest.com, http://www.vip-viet.com.
Theo quy định của đường dây này, nhà đầu tư trực tiếp đưa tiền cho
người môi giới và được cấp một tài khoản, mật khẩu trên mạng. Một đô-la
của nhà đầu tư, người môi giới được hưởng hoa hồng 0,02 USD. Quy tắc là,
càng lôi kéo nhiều người tham gia, mức hoa hồng càng cao. Dữ liệu về số
tiền đầu tư được hoán đổi thành điểm ảo. Người tham gia đầu tư, khi nộp
tiền cho đại lý, không nhận được bất cứ giấy tờ nào, ngoài một tài
khoản với những “điểm ảo” trên mạng, không được rút vốn gốc, chỉ được
rút lãi. Những người tham gia mua bán “điểm ảo” với nhau. Con số nạn
nhân ban đầu được ước tính chừng 5.000 người, nhưng ngay sau đó đã phát
hiện phạm vi hoạt động hầu như toàn quốc của mạng lưới này. Số người
liên quan thực tế có thể lên tới cả chục ngàn.
Trên hệ thống e-mail cũng xuất hiện hình thức lừa đảo
qua thư đề nghị hợp tác hay trợ giúp thủ tục hưởng thừa kế, thông báo
trúng giải thưởng có giá trị tới hàng triệu USD. Với đề nghị “hợp tác”
nhận khoản tiền hấp dẫn, người nhận thư (con mồi của đối tượng) cần thu
xếp trước một khoản kinh phí nhỏ và chuyển tới vị đại diện pháp lý nào
đó để lo các thủ tục cần thiết; đôi khi thủ phạm lại không đòi hỏi kinh
phí ngay từ ban đầu (để lấy lòng tin). Không lâu sau khi nạn nhân chuyển
số tiền theo yêu cầu tới địa chỉ được chỉ dẫn, họ sẽ phát hiện ra là bị
lừa. Interpol đã đưa hình thức lừa gạt này vào danh mục tội phạm tài
chính quốc tế bởi mức độ phổ biến và tính chất xuyên quốc gia của hoạt
động phạm tội với tên gọi “thư Ni-giê-ri-a”(1).
Gần tương tự với hình thức này là đô-la đen. Đối tượng giả vờ có một số
lượng lớn đô-la Mỹ đã được nhuộm đen để dễ dàng vận chuyển quốc tế, sau
đó, mượn tiền của nạn nhân để mua hóa chất tẩy rửa với lời hứa sẽ chia
một phần đáng kể trong tổng số tiền thu được. Dù đã rất quen thuộc từ cả
chục năm, tới tận tháng 3-2008, báo chí Việt Nam đưa tin vẫn còn có
những người trở thành nạn nhân của loại tội phạm này.
Các vụ lừa đảo tận dụng công nghệ cao thường phức
tạp, tinh vi, khó phát hiện cũng như khó truy bắt. Con số nạn nhân
thường đông đảo, phân bố trên phạm vi địa lý rộng khắp, nhất là trong
tình huống có xuất hiện yếu tố nước ngoài, do vậy, dễ gây ra ảnh hưởng
tâm lý tiêu cực trong xã hội. Trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu
và tự do hóa hoạt động của thị trường vốn, đây là vấn đề cần được đặc
biệt quan tâm.
Việc thực hiện các giao dịch tài chính được tự động
hóa ở mức độ ngày càng cao. Tận dụng khả năng công nghệ để thâm nhập vào
các hệ thống quản trị tài chính, đánh cắp thông tin và tạo ra các giao
dịch gian lận sẽ là nguy cơ cần sớm ngăn chặn. Theo cảnh báo năm 2007
của Trung tâm An ninh mạng (BKIS), 40% trong tổng số 60 website của các
công ty chứng khoán có lỗi về bảo mật, 140 website của các cơ quan,
doanh nghiệp quan trọng tại Việt Nam tồn tại những lỗ hổng nguy hiểm có
thể tạo điều kiện truy cập trái phép. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn chưa
nhận được quan tâm đúng mức. Khi bị xâm hại, hậu quả không đơn thuần
dừng lại ở ngừng trệ, hoặc mất thông tin, dữ liệu trên website. Rủi ro
tiềm ẩn là thông qua cánh cổng mở ra từ các website, tội phạm công nghệ
có thể chiếm quyền vận hành hệ thống quản trị, từ đó, thực hiện các giao
dịch gian lận với giá trị lớn.
3 – Biến động nhanh và khó kiểm soát của thị trường tài chính
Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) ra đời tháng
7-2000. Sau gần 8 năm vận hành, TTCKVN giúp huy động vốn gián tiếp quan
trọng và hiệu quả, làm tăng đáng kể tính thanh khoản cho các tài sản
tài chính của doanh nghiệp và Chính phủ. Nhưng quá trình phát triển
nhanh chóng cả về thành phần và số lượng đối tượng tham gia, mức độ đa
dạng các sản phẩm, lẫn tính phức tạp tăng lên trong cơ chế giao dịch,
vận hành, và kiểm soát thị trường… cũng phát sinh những vấn đề cần lưu
ý, vì gây ra rủi ro tiềm tàng ở quy mô rất lớn, có thể là toàn xã hội.
Sau hai năm đầu tăng trưởng khó khăn, TTCKVN rơi vào
một thời kỳ trầm lắng kéo dài (2002 – 2005); với mức quan tâm của xã hội
dành cho TTCK hầu như không đáng kể. Mãi tới nửa cuối năm 2006, sự sôi
động mới thực sự xuất hiện, thể hiện qua các thống kê thị trường.
Nếu như giai đoạn 2002 – 2004, TTCK chỉ xuất hiện
thêm một số lượng khiêm tốn là 6 mã cổ phiếu, thì năm 2005, số cổ phiếu
niêm yết tăng lên 41. Và con số này chưa bằng # số lẻ của tổng số cổ
phiếu niêm yết trên TTCK năm 2006 là 187. Riêng năm 2006, đã có 146 cổ
phiếu niêm yết mới, gấp hơn ba lần số tích lũy trong suốt thời kỳ 2000 –
2005. Tính đến hết năm 2007, có 250 mã cổ phiếu được niêm yết và tới
11-4-2008, con số đó là 286.
Thị trường chứng khoán Việt Nam nhộn nhịp hơn với hệ
thống trung gian tài chính gồm 87 CTCK và 30 công ty quản lý quỹ, thu
hút đông đảo các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, với xấp xỉ 298.000
tài khoản vào cuối 2007, trong đó có trên 7.000 là của nhà đầu tư nước
ngoài, tăng gần 300% so với năm trước (2006: 106.000).
Sự “hưng phấn” của TTCK được thể hiện qua xu thế tăng
mạnh của VN-Index từ cuối 2006 đến nửa đầu 2007. Khi chỉ số thị trường
đều đặn cộng thêm 5% vào sau mỗi phiên giao dịch, niềm tin về sự tồn tại
một “cỗ máy tạo tiền” hình thành và hối thúc người người, nhà nhà bỏ
vốn vào chứng khoán. Một suy nghĩ rất đơn giản và phổ biến cho rằng:
“chơi” chứng khoán là một hình thức tiết kiệm lãi suất cao. Thị trường
chiều lòng người. Các đỉnh cao kỷ lục VN-Index liên tục bị phá vỡ. Ngày
1-12-2006, VN-Index ở mức 631. Mười chín ngày sau, VN-Index đạt kỷ lục
810. Đầu năm 2007, VN-Index được ghivới bốn chữ số. Liên tục tháng hai,
ba và cả nửa đầu tháng tư, chỉ số chung của thị trường ở trên mức 1.000.
Đỉnh cao nhất của VN-Index là 1.171 điểm (12-3-2007).
Nhưng sự sụt giảm cũng diễn ra rất mau chóng. TTCKVN
suy giảm còn nhanh và mạnh hơn lúc tăng trưởng. Nửa cuối 2007 cho thấy
TTCKVN phổ biến ở 2 trạng thái, hoặc đi xuống hoặc hầu như không tăng.
Kể từ đầu 2008 thì thực sự bước vào giai đoạn sụt giảm mạnh, liên tục.
VN-Index lùi về mức 496,6 điểm vào ngày 25-3-2008. (Bảng 1).
Bảng 1: Xác lập mức “đáy” của VN-Index
Ngày
|
Mức “đáy”
|
VN-Index
|
7-1-2008
|
900
|
887
|
23-1-2008
|
800
|
776
|
26-2-2008
|
700
|
692
|
5-3-2008
|
600
|
583
|
25-3-2008
|
500
|
497
|
Nguồn: http://www.asset.vn
Biến động mạnh và nhanh của TTCK gây tác động tâm lý
tiêu cực cho đại đa số người tham gia thị trường, đặc biệt với các nhà
đầu tư nhỏ lẻ. Khi thị trường ở vào đỉnh cao, số tiền tích lũy của một
cá nhân trở nên không đủ lớn để tìm kiếm mức lợi nhuận đáng kể từ kinh
doanh chứng khoán thì xuất hiện từng nhóm cá nhân cùng nhau góp vốn, huy
động cá nhân, vay ngân hàng để có số vốn đáng kể tham gia thị trường.
Bởi vậy, khi giá cổ phiếu đồng loạt đi xuống, áp lực thu hồi vốn, thanh
toán nghĩa vụ tín dụng đè nặng lên đám đông với quy mô lớn hơn nhiều lần
số tài khoản giao dịch chứng khoán thống kê được.
Suy giảm trong 3 tháng đầu năm 2008 đưa TTCKVN về
vạch xuất phát của năm 2006 (xem hình trên). Các phản ứng tiêu cực và
thái quá của số đông công chúng đầu tư hoàn toàn có thể hiểu được, nhưng
đó cũng chính là những dấu hiệu bất ổn cần đặc biệt lưu tâm, kèm theo
các xung đột và tranh chấp lợi ích tài chính tiềm tàng, gay gắt và ở quy
mô rộng lớn hơn trong thời gian tới.
Ngày 5-3-2008, một nhóm các nhà đầu tư đã có mặt tại
TTGDCK Hà Nội đề nghị đóng cửa thị trường, ngừng giao dịch. Tiếp sau đó,
khi biết lãnh đạo UBCKNN đang có buổi họp báo cùng các cơ quan truyền
thông, nhà đầu tư đã đến và yêu cầu giải thích lý do giá chứng khoán sụt
giảm. Tham gia giao dịch chứng khoán với hành trang kiến thức
thiếu đầy đủ chính là căn nguyên của những ngộ nhận về tiềm năng và rủi
ro trên TTCK, cũng như những yêu cầu phi thị trường khi đòi hỏi
cơ quan nhà nước đứng ra bảo vệ và có các động thái tác động để giá cổ
phiếu không giảm, thậm chí là tăng lên.
4 – Xung đột lợi ích trong hoạt động kinh tế – kinh doanh – tài chính
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tác nhân đều theo
đuổi lợi ích riêng và một “bàn tay vô hình” của thị trường bảo đảm mục
tiêu này sẽ được chuyển thành hiệu quả tối ưu và tạo ra của cải với hàng
hóa thông thường. ở mức độ cơ bản nhất, tại doanh nghiệp, xung đột lợi
ích phát sinh khi xuất hiện nhà đầu tư bên ngoài muốn tham gia điều
khiển theo cách thức khác với những nhà quản lý hiện tại. Sự phân tán
trong quyền sở hữu góp phần khuếch đại vấn đề này. Nó làm gia tăng các
mâu thuẫn quyền lợi giữa những người cùng chia sẻ lợi ích từ doanh
nghiệp và kích thích những hành động vì lợi ích cá nhân của nhà đầu tư.
Những công ty không do chính chủ sở hữu quản lý dễ
gặp phải bất ổn về tổ chức: những người quản lý công ty được yêu cầu đặt
lợi ích của công ty cao hơn lợi ích của chính họ và hai lợi ích này có
thể không gặp nhau. Đây là điều các nhà kinh tế học thường gọi bằng tên
“vấn đề đại diện”: người quản lý công ty là người đại diện cho chủ sở
hữu và khi lợi ích của người đại diện này được ưu tiên trên hết, lợi ích
thực sự của công ty sẽ bị đe dọa. Ngay cả khi cổ đông có thể kiểm soát
hay tham gia trực tiếp quản lý công ty thì vẫn tồn tại xung đột lợi ích
giữa những cổ đông quản lý với nhóm còn lại. Với nền kinh tế đang trong
giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam, mô hình phổ biến là người chủ doanh
nghiệp – người sáng lập nắm quyền sở hữu hầu như toàn bộ doanh nghiệp,
tiếp tục đóng vai đại cổ đông và người điều hành sau quá trình đại chúng
hóa doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp có người điều hành là cổ đông nắm
giữ toàn bộ hoặc có phần sở hữu rất lớn thì vấn đề xung đột lợi ích hiếm
khi xảy ra. Đơn giản vì nếu có một quyết định bất lợi cho công ty,
người ra quyết định tự gây thiệt hại cho mình. Mọi rắc rối nảy sinh khi
cổ đông lớn nắm quyền kiểm soát và/hoặc điều hành doanh nghiệp khi chỉ
nắm giữ 51% cổ phần hay thậm chí ít hơn. Nếu cổ đông này đi ngược lại
lợi ích của công ty, bản thân họ chỉ phải chịu thiệt hại theo tỷ lệ phần
trăm sở hữu. Đặc biệt, trong trường hợp cấu trúc tài chính kiểu kim tự
tháp hoặc cổ phiếu có quyền ưu đãi quyết định, khi phần trăm kiểm soát
vượt quá tỷ lệ sở hữu thì vấn đề xung đột lợi ích càng dễ trở nên trầm
trọng.
Thế giới đã chứng kiến nhiều bài học về xung đột lợi
ích. Trong quá trình tư nhân hóa tại Nga, những người điều hành đã bán
lại với giá thấp tài sản của doanh nghiệp, gây thất thoát không nhỏ cho
nhà nước. Điều tương tự cũng xảy ra với với các Chaebol của Hàn Quốc,
khi nhiều vị lãnh đạo cao cấp bán lại các đơn vị thành viên hay cung cấp
sản phẩm với nhiều điều kiện ưu đãi cho những người thân cận. Trên thị
trường tài chính, gian lận của đội ngũ điều hành Livedoor (Nhật Bản) và
Enron (Hoa Kỳ) đã dẫn tới thiệt hại nghiêm trọng của các cổ đông và đưa
doanh nghiệp tới kết cục tồi tệ nhất: đóng cửa. Ngay tại Việt Nam, không
phải thị trường chưa từng có kinh nghiệm với các sự vụ tương tự.
Trong lịch sử TTCKVN, sự kiện kết thúc quý I năm
2003, Bibica đã vài lần xin hoãn nộp báo cáo quyết toán, cho mãi đến
tháng 5-2003 khi sự thật bị phơi bày, Bibica thông báo mức lỗ năm 2002
là 2,7 tỉ đồng, rồi ngay lập tức sửa thành 5,4 tỉ đồng trong một buổi
họp sau đó vài ngày. Nhưng báo cáo độc lập của Ban Kiểm soát trong Đại
hội cổ đông năm 2003 lại bác bỏ số lỗ 5,4 tỉ đồng do Ban Giám đốc công
bố, và đưa ra số lỗ thực 12,7 tỉ đồng. Trong vòng 6 tháng sau đó, giá cổ
phiếu BBC mất hơn 50%, kèm theo nhiều nhân sự chủ chốt của phòng kế
toán Bibica ra đi. Kết quả kiểm toán lần thứ hai đối với báo cáo tài
chính năm 2002 cho thấy có sự “xào nấu” sổ sách kế toán và mức lỗ thực
của Bibica đúng như số liệu của Ban kiểm soát. Ngoài ra, công ty kiểm
toán cho biết họ đã cùng Bibica lập lại một bản quyết toán của tài khóa
2002 trước khi kiểm toán. Theo bản quyết toán lần đầu do các nhân sự cũ
của phòng kế toán lập, Bibica đạt lợi nhuận 8,9 tỉ đồng trong năm 2002.
Như vậy, tổng cộng số tiền mà cựu kế toán trưởng Bibica “chế biến” được
sau khi “xào nấu” sổ sách xấp xỉ 20 tỉ đồng.
Một ví dụ khác, Công ty Đồ hộp Hạ Long (Canfoco) từng
bị ngừng giao dịch vào ngày 8-10-2002 sau khi ba nhân viên công ty bị
khởi tố làm khống chứng từ, chiếm đoạt 7 tỉ đồng tiền VAT. Từ ngày
16-10-2002, khi bắt đầu được giao dịch trở lại, cho đến ngày 20-11-2002,
CAN chỉ có 3 ngày tăng nhẹ, còn lại là giữ giá và giảm giá. Theo điều
tra, hơn 100 tỉ đồng doanh thu của CAN tạo ra trong năm 2001 là con số
ảo.
Đó là những gì xảy ra trong quãng thời gian TTCK kém
sôi động hơn hai năm vừa qua rất nhiều. Ngoài việc xuất hiện hàng trăm
mã cổ phiếu mới, việc phát hành cổ phiếu bổ sung tăng vốn điều lệ, mở
rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, phát triển dự án mới cũng được thực
hiện phổ biến và khẩn trương. Nếu chỉ nhìn riêng vào diễn biến VN-Index
năm 2007, có thể thấy ngay rằng, trung bình mỗi đồng cổ phiếu phát hành
sẽ thu về lượng thặng dư vốn 5 – 6 đồng không mấy khó khăn. Và đó là
nguồn động lực không nhỏ thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như những người
điều hành đang nắm giữ một lượng tương đối lớn cổ phiếu của doanh
nghiệp. Làn sóng thành lập công ty bất động sản, công ty chứng khoán,
ngân hàng, công ty tài chính – đầu tư xuất hiện và liên tiếp dâng cao.
Đây đều là các lĩnh vực kinh doanh rất hấp dẫn, hứa hẹn lợi nhuận tốt và
chia sẻ các đặc điểm: quy mô vốn lớn (từ vài chục tới vài trăm hay vài
nghìn tỉ), thời gian để các tiềm năng chuyển thành giá trị thật từ 3 – 5
năm, ngành mới – các đơn vị sáng lập không có nhiều kinh nghiệm hoạt
động. Nói cách khác, tính khả thi và hiệu quả của các dự án mới dừng lại
ở các cơ hội trong tương lai và chưa được kiểm chứng.
Công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương tín (Sacomreal)
được thành lập tháng 3-2004, với vốn điều lệ 10 tỉ đồng. Cuối năm 2005,
Sacomreal nâng mức vốn điều lệ lên 33 tỉ đồng. Từ giữa năm 2006, quy mô
vốn điều lệ của công ty bắt đầu mở rộng nhanh chóng. Tháng 7-2006, công
ty đăng ký mức vốn điều lệ 100 tỉ. Nửa năm sau, mức này được bổ sung
thêm 100 tỉ. Đến đầu quí II năm 2007, Sacomreal có vốn điều lệ 320 tỉ.
Ngày 1-6-2007, công ty đăng ký vốn điều lệ 505 tỉ (gấp 5 lần một năm
trước đó). Có thể thấy rằng, mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh gấp 5
lần trong thời gian 12 tháng là một thành tích đáng nể. Thử định giá cổ
phiếu Sacomreal ở mức khiêm tốn là 30.000 đ/cổ phiếu (mệnh giá: 10.000
đ/cổ phiếu) thì phần thặng dư vốn thu được tính cho phần chênh lệch vốn
điều lệ giữa năm 2006 và năm 2007 sẽ vào khoảng 400 tỉ x (3-1) lần = 800
tỉ. Cho dù ngành bất động sản có mức tỉ suất lợi nhuận cao thế nào,
cũng rất khó hình dung một công nghệ kinh doanh mang lại mức lợi suất
trên 150% trong 12 tháng nhanh và dễ như vậy.
Bảng: Lịch sử thay đổi vốn điều lệ của CTCP Địa ốc Sài Gòn Thương Tín
Ngày thay đổi
|
Giá trị thay đổi
|
Vốn sau thay đổi
|
1-6-2007
|
185.000.000.000
|
505.000.000.000
|
1-4-2007
|
120.000.000.000
|
320.000.000.000
|
1-1-2007
|
100.000.000.000
|
200.000.000.000
|
01-07-2006
|
67.000.000.000
|
100.000.000.000
|
01-11-2005
|
22.000.000.000
|
33.000.000.000
|
01-03-2004
|
11.000.000.000
|
Khi các doanh nghiệp niêm yết tận dụng sức hấp dẫn
của TTCK để thu hút nguồn lực xã hội, khả năng sử dụng đồng vốn ở mức
hiệu quả thấp rất dễ xảy ra. Tình hình sẽ nghiêm trọng hơn, khi mà nguồn
vốn từ huy động không bổ sung năng lực kinh doanh, tăng sức cạnh tranh
của doanh nghiệp. Đồng thời, một phần của nguồn vốn đó chuyển thành tài
sản cá nhân của nhóm các cổ đông vốn sở hữu lượng cổ phần lớn trong công
ty thoái vốn để thu hồi tài sản tiền mặt cá nhân. Việc giảm nhanh tỷ lệ
sở hữu của các vị trí lãnh đạo chủ chốt, đặc biệt khi cổ phiếu ở mức
giá cao, làm trầm trọng thêm nguy cơ xung đột lợi ích giữa các nhóm cổ
đông. Dư luận đặc biệt quan tâm mức cổ tức tiền mặt tại mùa đại hội cổ
đông đầu 2008 phần nào cũng là biểu hiện sự lo lắng và mâu thuẫn giữa
lợi ích đầu tư tài chính ngắn hạn với nhà đầu tư gắn bó lâu dài của
doanh nghiệp. Một mối nguy khác là, toàn bộ cỗ máy kinh doanh ngừng trệ
hoặc suy giảm hiệu quả do chạy theo các hoạt động tài chính, quan hệ nhà
đầu tư, phát hành và chuyển nhượng cổ phiếu…
5 – Tăng tính dễ bị tổn thương của hệ thống tài chính quốc gia với các vận động kinh tế và dòng vốn quốc tế
Với hệ thống chính trị ổn định, vị thế tăng cao qua
quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, kết quả tăng trưởng kinh tế tích
cực, Việt Nam được xem là điểm đầu tư hấp dẫn của thế giới giai đoạn
2005 – 2008. Năm 2007, vốn FDI vào Việt Nam đạt kỷ lục 20,3 tỉ USD, tăng
69,1% so với năm 2006 và vượt 56% so với dự kiến. Trong ba tháng đầu
năm 2008, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam trên 5,4 tỉ USD. Theo Cục Đầu tư
nước ngoài, mức vốn này tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2007.
Thị trường tài chính ghi nhận sự quay trở lại của các
quỹ đầu tư nước ngoài. Có mặt tại Việt Nam khá sớm từ đầu những năm 90
của thế kỷ trước, tám quỹ đầu tư nước ngoài với quy mô vốn khoảng 700
triệu USD lần lượt rút lui sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu á
năm 1997. Thời điểm sau năm 1997, chỉ còn lại hai quỹ Vietnam Enterprise
Investment Limited (VEIL) do công ty Dragon Capital quản lý và Vietnam
Frontier Fund (VFF) thuộc tập đoàn Finasa. Bản thân VFF, quy mô vốn 50
triệu USD, sau đó cũng rời khỏi Việt Nam. Giai đoạn 2002 – 2005, mặc dù
TTCK tương đối trầm lặng, vẫn xuất hiện thêm nhiều quỹ mới thuộc các
công ty Mekong Capital, VinaCapital, VietFund hay PXP Asset Management.
Vào thời kỳ bùng nổ của TTCK, cùng với sự xuất hiện của vài chục công ty
quản lý quỹ Việt Nam, các dòng tài chính nước ngoài cũng “lũ lượt” vào
Việt Nam.
http://www.saga.vn/: Tháo chạy vốn (capi-tal flight) là sự dịch chuyển nguồn tiền đầu tư từ khu vực hiện tại sang khu vực mới nhằm tìm kiếm mức độ ổn định cao hơn hoặc gia tăng mức lợi nhuận đầu tư thu được. Quá trình tháo chạy vốn ghi nhận dòng vốn đầu tư nước ngoài rất lớn được chuyển ra khỏi quốc gia, thường trong các khoảng thời gian mà thị trường tiền tệ gặp nhiều vấn đề bất ổn. Quy mô của lượng vốn tháo chạy này cũng thường lớn tới mức đủ để gây tác động cho toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia.
Thời điểm giữa năm 2006, VinaCapital khai trương quỹ
đầu tư bất động sản Vinaland với dự kiến huy động 50 triệu USD nhưng đã
nhận được 65 triệu từ các nhà đầu tư. Thành công trong lần phát hành và
niêm yết trên thị trường chứng khoán London của Indochina Capital
Vietnam Holiding Limited thể hiện tính sẵn sàng của dòng vốn quốc tế cho
Việt Nam và là một bất ngờ. Trong lần phát hành này, Indochina Capital
dự kiến thu hút từ 300 – 350 triệu USD, kết quả, tổng số vốn huy động
được là 500 triệu USD. Số tiền 50 triệu USD còn lại trong quỹ Vietnam
Opportunities Fund (VOF) cũng được VinaCapital nỗ lực giải ngân tập
trung trên thị trường địa ốc và các giao dịch OTC. Mekong Capital mở
rộng quy mô với 50 triệu USD cho MEFII (Mekong Enterprise Fund II).
Indochina Capital góp mặt với quỹ địa ốc 42 triệu USD và quỹ chứng khoán
quy mô 50 triệu USD. Ngoài ra, còn phải kể tới quỹ đầu tư của các tập
đoàn bảo hiểm quốc tế tại Việt Nam như Prudential Vietnam hay Manulife
Vietnam với mức vốn đăng ký vài chục triệu USD.
Sự góp mặt của các tên tuổi tài chính quốc tế như
Merrill Lynch, Goldman Sachs, JP Morgan cùng lực lượng hùng hậu các quỹ
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là tín hiệu đáng phấn khởi. Dẫu vậy, tác
động không nhỏ của các lực lượng này lên thị trường tài chính Việt Nam
không thể bỏ qua. Trong lộ trình hội nhập WTO, thị trường vốn Việt Nam
tiến dần tới chỗ tự do hoàn toàn. Đã có 37 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam, sắp tới sẽ là sự xuất hiện của ngân hàng
thương mại, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài,
các rào cản với dịch chuyển vốn quốc tế cũng sẽ dần được gỡ bỏ. Khi đó,
từng biến động của thị trường tài chính thế giới và khu vực sẽ gây ảnh
hưởng trực tiếp tới hệ thống tài chính Việt Nam. Hiện tượng tháo chạy
vốn khi xuất hiện các biến cố tài chính, như đã từng xảy ra với
Ma-lai-xi-a hay Thái Lan vào năm 1997 – 1998, hoàn toàn có thể lặp lại
với Việt Nam. Hệ lụy của việc dòng vốn đầu tư nước ngoài đột ngột rút đi
sẽ càng nghiêm trọng khi năng lực sản xuất và cạnh tranh nội tại của
nền kinh tế chưa có đủ thời gian cần thiết để cải thiện. Lúc này, các
đối tác Việt Nam mới chỉ kịp hoàn thành nghĩa vụ đối ứng bằng việc đóng
góp và chuẩn bị hạ tầng, nhà xưởng và mở rộng tiêu dùng mua sắm máy móc,
thiết bị.
Ngoài ra, nếu có thể thực hiện một phép cộng gộp
lượng tài sản mà nhóm quỹ đầu tư nước ngoài đang nắm giữ thì sẽ được một
con số ngang bằng với tỷ lệ không nhỏ của GDP. Một lực lượng kinh tế
nước ngoài có ảnh hưởng ngày một mở rộng đang được hình thành.
6 – Khoảng cách giữa cấu trúc vĩ mô và triển khai vi mô
Trong nền kinh tế, hệ thống tài chính được điều hành
bởi các chính sách vĩ mô và thực thi tại cấp vi mô, cụ thể tới đơn vị
doanh nghiệp. Hiện nay vẫn tồn tại tình trạng không đồng bộ giữa hai cấp
điều hành và thực thi. Chính sách vĩ mô dù có đúng đắn tới đâu cũng cần
được thi hành đầy đủ mới mang lại hiệu quả mong muốn. Khi chưa nắm vững
phương thức triển khai ở cấp độ vi mô, người hoạch định chính sách ở
vào tình thế bị động, không lường trước được các phản ứng và hệ quả của
việc thực thi chính sách. Kết quả thực thi chỉ tới khi đã hiển hiện mới
được ghi nhận. Và nếu không phải là kết cục mong đợi thì hành động tiếp
theo của những người làm chính sách là điều chỉnh quyết sách mới được
đưa ra. Cách làm này, nếu kéo dài, tạo tâm lý bất an đối với hành lang
pháp lý điều khiển các hoạt động kinh tế.
Trong những tháng qua, khi thị trường chứng khoán suy
giảm, giá cả tăng cao, lãi suất của các ngân hàng thương mại bị đẩy lên
mức kỷ lục, Chính phủ đã thực hiện đồng bộ nhiều chính sách thực hành
tiết kiệm, khuyến nghị các doanh nghiệp hạn chế phát hành mới, huy động
vốn bổ sung và rà soát lại tính khả thi và hiệu quả của các dự án. Tuy
vậy, việc dừng ngay các dự án đang triển khai là rất khó khăn với doanh
nghiệp. Bởi kèm theo đó là những cam kết sẽ phải hủy bỏ với đối tác, nhà
cung cấp, khách hàng, là các khoản đã đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, mặt bằng… phải trở thành chi phí treo, chưa nói tới tính nghiêm
trọng của hàng loạt lao động cũng bị cuốn mất theo “tiếng còi” dừng cuộc
chơi này. Còn phải kể tới sức hấp dẫn của khoản thặng dư vốn cổ phần
sau mỗi đợt phát hành mới. Dù rằng con số thu được chỉ bằng một nửa so
với lúc TTCK tăng trưởng cao thì việc thu hút và tích lũy một lượng tiền
mặt để dự phòng các biến cố kinh tế có thể xảy đến cũng đủ tạo động lực
cho doanh nghiệp.
7 – Hạn chế trong thực hành truyền thông tài chính
Chất lượng của hệ thống truyền thông tài chính ở Việt
Nam cũng là điều đáng bàn, và đã tiềm tàng những rủi ro sinh ra từ một
(hay hơn) trong ba nhân tố cấu thành chất lượng: Giá trị thông tin, quá trình phân tích và phương tiện thực hành truyền thông.
Bằng chứng về sự “hào hứng” của xã hội và số lượng ấn
phẩm tham gia vào truyền thông tài chính không hề tỷ lệ thuận với chất
lượng truyền thông ở Việt Nam, do yếu tố xung đột, nguồn, chất lượng
cung cấp, sự bảo đảm khách quan và hiệu quả của phương tiện, vẫn chưa
được kiểm soát gắt gao. Trên TTCK, giá chứng khoán có thể tăng giảm theo
các dòng thông tin. Nhưng việc tăng giảm này chỉ đồng nghĩa với việc
“xác lập được điểm cân bằng” khi và chỉ khi các quy tắc văn minh được
bảo đảm, điều này hiện không ai dám khẳng định.
Rõ ràng, thông tin là một giá trị và quyền sở hữu, quyền ngăn chặn người khác tiếp cận thông tin chính xác đã trở thành một thứ quyền lực ghê gớm.
Tính chất “giá trị” của nội dung thông tin đã được khẳng định ngày càng
rõ, cho dù có tuân theo ý đồ của người đưa tin hay không. Chính vì thế,
sự công bằng thông tin phải trở thành một chuẩn mực, mà nếu không được
bảo đảm, rủi ro sẽ thành biến cố chắc chắn, một khi bối cảnh phù hợp xuất hiện.
(1) Do ban đầu các lá thư giả mạo thường được gửi đi với xuất xứ từ Ni-giê-ri-a
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 9 (153) NĂM 2008
0 comments:
Post a Comment