VP5 – NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Hiện nay, các
quy định của pháp luật về đất đai, công chứng và đăng ký giao dịch bảo
đảm được ban hành khá đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp, tổ chức tín dụng trong hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện các quy định liên quan đến vấn đề này, các tổ chức
tín dụng vẫn gặp một số khó khăn vướng mắc, cụ thể:
Thứ nhất, về việc công chứng Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất còn nợ thuế. Hiện nay, trong Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vẫn cho phép chủ sử dụng đất được chậm thi hành nghĩa vụ thuế
với nhà nước (chẳng hạn như thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế trước
bạ.. Nhưng khi công chứng các loại giấy tờ này để thế chấp vay vốn ngân
hàng thì các phòng công chứng đều yêu cầu phải hoàn thành nghĩa vụ tài
chính với nhà nước trước thì mới tiến hành công chứng hợp đồng thế chấp.
Điều này đã đẩy khách hàng vay vốn lâm vào tình trạng khó khăn hơn và
cản trở việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với các hộ kinh
doanh, tư nhân cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, về việc sử dụng mẫu hợp đồng bảo
đảm. Hiện nay, khi thực hiện thủ tục công chứng hợp đồng bảo đảm, một số
Phòng Công chứng yêu cầu ngân hàng phải sử dụng mẫu hợp đồng bảo đảm
của Phòng công chứng và không chấp nhận mẫu hợp đồng bảo đảm do ngân
hàng và khách hàng thoả thuận. Trong khi đó, Điều 388 Bộ Luật dân sự
2005 quy định: “ Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Điều 35,36 Luật công
chứng cũng đã quy định về trường hợp công chứng đối với hợp đồng, giao
dịch đã được soạn thảo sẵn hoặc hợp đồng do người thực hiện công chứng
soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, không quy định bắt
buôc người yêu cầu công chứng phải dùng mẫu hợp đồng của cơ quan công
chứng.
Một số Phòng công chứng không yêu cầu ngân hàng và
khách hàng sử dụng mẫu do Sở Tư pháp ban hành nhưng yêu cầu ngân hàng và
khách hàng gạch bỏ những nội dung trong hợp đồng, mặc dù những nội dung
này không trái quy định pháp luật, như quy định về tài sản hình thành
trong tương lai, nghĩa vụ hình thành trong tương lai… Khi các bên đề
nghị cơ quan công chứng trả lời lý do từ chối công chứng, các cơ quan
công chứng không trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu công chứng.
Thứ ba, về việc công chứng trong trường hợp
một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ. Pháp luật đã quy định một tài
sản được bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ tại một hoặc nhiều tổ chức tín dụng.
Nhưng trên thực tế, khi phát sinh trường hợp này, mỗi cơ quan công
chứng lại thực hiện khác nhau.
Đối với các cơ quan công chứng phía Nam, các bên lập
hợp đồng bảo đảm để vay vốn hoặc bảo lãnh bổ sung. Hợp đồng này là một
phần không thể tách rời của các hợp đồng bảo đảm cho các nghĩa vụ trước
đó, trong đó quy định việc tài sản đã được bảo đảm cho các nghĩa vụ nào,
nay được tiếp tục thực hiện theo các hợp đồng bảo đảm đã ký. Các bên
thực hiện côgn chứng và đăng ký đối với hợp đồng bảo đảm để vay vốn/bảo
lãnh bổ sung này. Cong đối với các cơ quan công chứng tại khu vực phía
Bắc thì lại yêu cầu các bên không được lập hợp đồng bảo đảm riêng mà
phải lập Phụ lục của hợp đồng bảo đảm trước đây để tăng số tiền vay,
thời hạn vay và thực hiện công chức Phụ lục này. Các làm này là không
hợp lý vì theo quy định tại Khoản 1 Điều 408 BộLuật dân dự thì : “Kèm
theo hợp đồng có thể có phụ lục để quy định chi tiết một số điều khoản
của hợp đồng…” Do vậy, việc tăng số tiền vay, thời hạn vay không phải là
quy định chi tiết một số điều khoản của hợp đồng. Đồng thời, theo quy
định tại Khoản 2 Điều 408 Bộ luật dân sự thì trường hợp các bên chấp
nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với điều khoản trong hợp đồng
thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được sửa đổi. Như vậy, không
thể lập Phụ lục hợp đồng trong trường hợp này, các hợp đồng bảo đảm cho
các nghĩa vụ trước vẫn có hiệu lực, không thể bị coi là sửa đổi được.
Hơn nữa, khi lập Phụ lục như trên, các cơ quan đăng ký từ chối đăng ký
với lý do cơ quan đăng ký không đăng ký đối với việc chi tiết hoặc sửa
đổi hợp đồng công chứng.
Thứ tư, về việc nhận thế chấp quyền sử dụng
đất, tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình. Hiện nay, các quy định về
hộ gia đình rất chung chung và khó áp dụng trong thực tế. Theo quy định
tại Điều 106 Bộ luật Dân sự năm 2005, việc cấp đất cho hộ gia đình chủ
yếu trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực
kinh doanh do pháp luật quy định. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương lại
không phân biệt được trường hợp nào là cấp cho hộ, trường hợp nào cấp
cho cá nhân, trường hợp nào là tài sản chung vợ chồng mà hầu như tất cả
đều cấp cho hộ gia đình, ngay cả đất ở cũng cấp cho hộ gia đình. Nhiều
trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nhưng người đứng
tên trên giấy chứng nhận không phải là chủ hộ của một hộ gia đình nào
hoặc cấp cho hộ nhưng đứng tên là hai vợ chồng.
Thứ năm, về việc đăng ký giao dịch bảo đảm
đối với tài sản hình thành trong tương lai. Hiện nay, khách hàng là cá
nhân có nhu cầu vay vốn ngân hàng và muốn sử dụng tài sản bảo đảm là các
căn hộ trong các dự án xây dựng chung cư hoặc các doanh nghiệp đã trúng
thầu quyền sử dụng đất khi tham gia đấu thầu đồng thời muốn sử dụng
chính mảnh đất đó làm tài sản bảo đảm để vay vốn ngân hàng khi thực hiện
dự án. Đây là nhu cầu chính đáng của các khách hàng. Tuy nhiên, ngân
hàng lại gặp khó khăn trong việc ký hợp đồng thế chấp và đăng ký giao
dịch bảo đảm đối với các trường hợp này do chưa có giấy chứng nhận quyền
sở hữu hoặc quyền sử dụng đất.
Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của các tổ chức
tín dụng trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về đất đai,
công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm, các bộ, ngành cơ quan hữu quan
cần hướng dẫn thống nhất thực hiện một số nội dung, như:
Một là, Bộ Tư pháp cần chỉ đạo các cơ quan
công chứng thống nhất thực hiện công chứng giao dịch bảo đảm đối với các
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn nợ thuế khi thấp chấp tại ngân
hàng đối với các trường hợp người sử dụng đất được chậm thực hiện nghĩa
vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp
luật. Vì, Khoản 1c Điều 98 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
của Chính phủ về thi hành Luật đất đai đã quy định: “Trường hợp người sử
dụng đất được chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa
vụ tài chính theo quy định của pháp luật thì được thực hiện các quyền
của người sử dụng đất kể từ khi có quyết định giao đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất, ký hợp đồng thuê đất”.
Hai là, các cơ quan công chứng cần thống
nhất thực hiện đúng quy định của pháp luật về công chứng, không bắt buộc
các bên tham gia hợp đồng phải sử dụng các mẫu hợp đồng không do cơ
quan nhà nước ban hành. Các mẫu hợp đồng (nếu có) chỉ có ý nghĩa để các
bên tham khảo. Bộ Tư pháp cần có những biện pháp cụ thể để yêu cầu phòng
công chứng chỉ được yêu cầu các bên gạch bỏ những nội dung nếu các nội
dung vi phạm quy định của pháp luật và khi từ chối công chứng, cơ quan
công chứng phải trả lời bằng văn bản cho các bên yêu cầu công chứng biết
rõ lý do, cơ sở pháp lý của việc từ chối công chứng.
Ba là, đối với trường hợp một tài sản bảo
đảm cho nhiều nghĩa vụ, Bộ Tư pháp cần thống nhất hướng dẫn nghiệp vụ
công chứng một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, các nghĩa vụ được bảo
đảm bổ sung thêm thực hiện công chứng hợp đồng mới, không ký phụ lục
hợp bảo đảm trong trường hợp này.
Bốn là, các bộ ngành liên quan (Bộ Tư pháp,
Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng) cần làm rõ, xác
định cơ sở, bằng chứng để xác định các thành viên của hộ gia đình, có
thể dựa vào sổ hộ khẩu để xác định hay không? Cách ghi trên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất như thế nào. Các bộ, ngành cần kiến nghị Chính
phủ sửa đổi Luật đất đai, Luật nhà ở theo hướng cho phép khách hàng vay
vốn được bảo đảm bằnh căn hộ đã mua trong các dự án xây dựng chung cư
hoặc quyền sử dụng đất đã trúng thầu như là một tài sản hình thành trong
tương lai cho phù hợp với thực tế. Trong trường hợp chưa sửa được Luật
đất đai, Luật nhà ở, Chính phủ nên có Nghị quyết, Nghị định hướng dẫn
việc thế chấp trong các trường hợp này để bảo đảm thực hiện thống nhất
nguyên tắc được quy định bởi Bộ luật dân sự, bảo đảm quyền lợi của các
cá nhân, tổ chức.
0 comments:
Post a Comment