PGS.TS. TRẦN NGỌC THƠ
Chỉ số xếp hạng
tự do kinh tế đã đánh giá nền kinh tế VN là hầu như không có tự do kinh
tế (điểm xếp hạng từ 3 đến 3,99 trên 5 điểm được xem là hầu như không có
tự do kinh tế). Điều đáng ngại hơn nữa là nếu so sánh với các nước
trong khu vực thì môi trường tự do kinh tế của VN hiện đang đứng ở vị
thế thấp nhất và thua xa so với Campuchia, một quốc gia chỉ mới là thành
viên của WTO trong vài năm gần đây và được xếp hạng có môi trường tự do
hóa kinh tế ở mức cao.
Một chuyện có thật xảy ra ở Trung Quốc vào khoảng năm
1920, một ông khách Tây tới thăm phố Hàng Châu và khen ngợi những người
phu kiệu cho ông mặc dù còn đang rất mỏi mệt vẫn cười đùa ầm ĩ. Ông cho
rằng những người phu khiêng kiệu rất lạc quan và biết cách sống. Đã có
rất nhiều những đánh giá khác nhau từ câu chuyện này.
Người nước ngoài đi đến đâu cũng vậy, cứ ban phát vô
tư những lời khen tặng bởi họ có mất mát gì đâu cho nên cười theo kiểu
như thế là vô cảm và vô trách nhiệm, không thấy được nỗi nhục của sự tụt
hậu. Người thì cho rằng cần phải lạc quan và yêu đời để vượt qua những
thách thức của cuộc sống. Nhưng có trách nhiệm hơn cả, có lẽ là một thái
độ nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm khắc hơn nữa về những gì mà chúng
ta vẫn còn chưa làm được.
Liên hệ với VN, dễ thấy rằng hễ có bất kỳ một khách
ngoại quốc nào khen tặng những thành tựu kinh tế của chúng ta trong thời
gian qua thì y như rằng hầu hết các phương tiện truyền thông đều đưa
lên những hàng tít lớn. Khó có thể bình luận thực hư gì về những nhận
xét kiểu như thế này bởi trong những lời khen tặng đó có những câu
chuyện có thực, cũng có những điều mang tính ngoại giao.
Bài viết này không có ý định nhận xét về những nhận
định của các cá nhân hoặc các tổ chức nước ngoài về thành tựu kinh tế
của VN mà thay vào đó là những nhận định và phân tích của họ về những gì
mà chúng ta còn chưa làm được trong hơn 10 năm qua. Và phạm vi cũng chỉ
giới hạn xoay quanh câu hỏi có liên quan rất lớn đến môi trường đầu tư
cũng như những cơ hội và thách thức của VN trong lộ trình hội nhập vào
WTO vào năm 2005, đó là “Có tự do kinh tế ở VN hay không?”.
Để trả lời cho câu hỏi “Có tự do kinh tế ở VN hay
không?”, trước hết chúng tôi đã tiến hành các nghiên cứu của mình dựa
trên đánh giá của chỉ số xếp hạng tự do kinh tế. Đây là báo cáo hàng năm
của Heritage Foundation và Wall Street Journal (chuyên về xếp
hạng tự do hóa của các nước thông qua chỉ số tự do kinh tế – Index of
Economic Freedom) trong giai đoạn từ 1995 đến 2005 (điểm 1 là xếp hạng
cao nhất và điểm 5 là thấp nhất).
Những đánh giá trong chỉ số tự do kinh tế đã được các tác giả của Heritage Foundation và Wall Street Journal
tập hợp rất công phu từ nhiều nguồn số liệu của các tổ chức quốc tế như
WB, IMF, ADB v.v. cùng với các cuộc phỏng vấn chính thức hoặc thông qua
Internet với các quan chức ở các quốc gia trên toàn thế giới. Chỉ số tự
do kinh tế dựa trên căn bản của 50 biến số độc lập và được phân ra
thành 10 nhóm nhân tố khác nhau và mỗi nhân tố đều có trọng lượng quyền
số như nhau. Không có nhóm nhân tố nào có tỷ trọng cao hơn do mục đích
của các đánh giá này là các quốc gia nếu muốn tăng chỉ số tự do trên
bảng xếp hạng buộc phải có những cố gắng toàn diện chứ không phải chỉ
tập trung vào một vài nhân tố cá biệt nào đó như là nhân tố ổn định
chính trị chẳng hạn.
Ngoài việc tham khảo dựa trên xếp hạng chỉ số tự do
kinh tế, chúng tôi còn dựa trên báo cáo của Bộ thương mại Mỹ về tình
trạng kinh tế thị trường/phi thị trường của VN và cùng với nhiều tài
liệu khác như của IMF, UNDP, của các tổ chức xếp hạng khác cùng với
những nghiên cứu của bản thân trong nhiều năm qua để đánh giá mức độ tự
do hóa kinh tế của VN giai đoạn 1995-2005.
1. Chính sách thương mại
Chính sách thương mại và đầu tư tạo ra nhiều chi phí
lớn cho nền kinh tế. Điều đầu tiên rất dễ nhận biết là các chính sách
bảo hộ sản xuất trong nước của chúng ta trong thời gian qua chủ yếu
hướng đến lợi ích của khu vực kinh tế nhà nước. Khu vực kinh tế nhà nước
vẫn còn được hưởng những đặc lợi từ độc quyền do chính sách bảo hộ đem
lại. Trong khi khu vực kinh tế này luôn luôn bị đánh giá là làm ăn kém
hiệu quả thì sự bảo hộ như thế sẽ góp phần làm méo mó sự phân bổ nguồn
lực của đất nước khi phát huy lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế.
Rõ ràng trong tương lai những dạng chính sách này sẽ
còn làm hạn chế rất nhiều đến khả năng tăng trưởng kinh tế của VN. Những
đánh giá gần đây cho thấy, những ngành công nghiệp mà các DNNN đang
hoạt động không những chỉ hạn chế trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên
truyền thống mà còn mở rộng sang cả lĩnh vực thực phẩm, bán buôn, xăng
dầu, các sản phẩm công nghệ thông tin, một số sản phẩm cơ khí và điện
tử, sản xuất kim loại thép và kim loại màu, các hóa chất cơ bản, phân
bón, xi măng, xây dựng và dược phẩm. Chưa đủ mà còn thêm vào đó là những
khuynh hướng của Chính phủ trong việc hình thành một số các tổng công
ty lớn độc quyền trong các lĩnh vực vốn dĩ từ trước đến nay đã là siêu
độc quyền như tài chính ngân hàng bưu chính viễn thông bất chấp việc các
tập đoàn nhà nước này kinh doanh có hiệu quả thật sự hay không bởi
chúng ta không có những số liệu kiểm toán đáng tin cậy để đánh giá một
cách chính xác.
Kết quả của những chính sách này ngày càng làm cho
cạnh tranh giữa khu vực nhà nước và của các thành phần kinh tế khác trở
nên mất cân xứng và làm biến dạng đáng kể các loại giá cả trong nền kinh
tế, một tiền đề vô cùng quan trọng cho tiến trình hội nhập kinh tế
thành công. Cần lưu ý là những xu hướng không lành mạnh như trên vẫn
diễn ra bất chấp diễn tiến hiện nay ở các nước trong khu vực trong việc
tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Điểm về chính sách thương mại của VN thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp nhất trong năm 2005: 5 điểm.
2. Tiền lương và giá cả
Nhà nước vẫn còn kiểm soát giá cả nền kinh tế quá sâu
và theo cách thức không dự báo trước được. Với mục đích kiểm soát lạm
phát, giá cả của các hàng hóa và dịch vụ như điện nước, viễn thông, xăng
dầu, giá dịch vụ vận chuyển v.v. hiện nay đang được Chính phủ kiểm soát
rất chặt. Các nhà đầu tư nước ngoài – theo đánh giá trong chỉ số tự do
kinh tế – hiện đang phải chi trả cho các dịch vụ độc quyền trên với mức
giá “cao hơn” so với các doanh nghiệp trong nước, mặc dù họ có nhận xét
rằng chúng ta đang trong quá trình xóa bỏ các rào cản dẫn tới các phân
biệt đối xử này. Ngoài ra, hệ thống tiền lương hiện cũng chưa phản ánh
đúng trình độ thực sự của người lao động nếu so với tiền lương trong khu
vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nói cách khác, giá cả và
tiền lương hiện vẫn chưa phản ánh đúng các diễn biến cung cầu trên thị
trường và vẫn còn bị bóp méo đáng kể.
Có một điểm tiến bộ trong lĩnh vực tự do hóa giá cả
là Chính phủ đã hủy bỏ hầu hết những kiểm soát giá cả vào năm 1992, trừ
những lĩnh vực liên quan đến độc quyền nhà nước và giá cả những mặt hàng
thiết yếu đối với nền kinh tế bao gồm điện, dịch vụ bưu chính và điện
thoại. Pháp lệnh về giá năm 2002 cũng hạn chế phạm vi định giá của Nhà
nước vào những lĩnh vực đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản nhà
nước, hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế quốc dân, hoặc những
hàng hóa dịch vụ thuộc độc quyền nhà nước. Pháp lệnh này được coi là
biện pháp tạm thời ngăn chận lạm dụng giá độc quyền nhà nước cho đến khi
luật cạnh tranh có hiệu lực.
Mặc dù đã có những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực
tự do hóa giá cả, nhưng theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài,
hiện vẫn còn một số những tồn tại đáng kể có thể ảnh hưởng rất lớn đến
tiến trình hội nhập, ví dụ như biện pháp kiểm soát giá điện. Thậm chí
mỗi khi Công ty điện lực VN thiếu vốn để đầu tư, họ lại đưa ra những đề
xuất về tăng giá điện và thậm chí ngành này còn có hẳn một lộ trình tăng
giá điện trong vòng nhiều năm. Chỉ đến khi gặp phải sự kháng cự từ công
luận lộ trình tăng giá điện mới tạm thời được khép lại trong năm 2004
vừa qua.
Ngoài ra, Ban vật giá chính phủ mà hiện nay là Bộ tài
chính vẫn còn tham gia đáng kể vào tiến trình định giá không những chỉ
đối với các sản phẩm và dịch vụ như điện, viễn thông, nước, vận tải hàng
không và đường sắt mà còn lan sang cả những lĩnh vực khác như xi măng,
sắt thép và các sản phẩm công nghiệp khác như dược phẩm chẳng hạn.
Cần phải thấy rằng, các nhà đầu tư nước ngoài đã có
những đánh giá tốt những nỗ lực của Chính phủ trong các biện pháp kiểm
soát giá độc quyền để đảm bảo giá cả của những hàng hóa và dịch vụ cơ
bản ở mức chấp nhận được với đại đa số dân chúng. Nhưng cái làm cho tiến
trình kiểm soát của chúng ta có vấn đề và không nhận được sự đồng tình
cao trong các nhà đầu tư là Chính phủ vẫn còn tham gia điều chỉnh đáng
kể đối với một số mặt hàng công nghiệp như thép, xi-măng, điện và theo
một cách thức không dự báo trước được. Nói cách khác diện kiểm soát của
chúng ta quá dàn trải và quá sâu.
Điểm về tiền lương và giá cả thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp trong năm 2005: 3,5 điểm.
3. Dòng vốn và đầu tư nước ngoài
Chừng nào vẫn còn giới hạn tỷ lệ sở hữu của nguời
nước ngoài, môi trường đầu tư vẫn sẽ còn xấu đi nhiều. Đầu tư nước ngoài
mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng các rào cản vẫn còn đáng kể. Hạn chế
lớn nhất vấn là giới hạn 30% tỷ lệ sở hữu tối đa của người nước ngoài.
Ngoài ra những tiếp cận của người nước ngoài với ngoại tệ trong các giao
dịch vãng lai và trên tài khoản vốn vẫn còn phải được sự đồng ý của
Chính phủ. Thêm vào đó là các phiền phức và rắc rối trong các thủ tục
hành chính phức tạp ở VN có liên quan đến đầu tư nước ngoài.
Có lẽ vấn đề chính sách trọng tâm nhất trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài ngay trong năm 2005 – thời điểm quyết định chúng ta
có được hội nhập vào WTO đúng như kỳ vọng hay không – là một khẳng định
với cộng đồng quốc tế việc xóa bỏ hoàn toàn những hạn chế tỷ lệ sở hữu
của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ phải công bố công khai ngay lập
tức một số rất ít các lĩnh vực nằm trong danh mục cần phải hạn chế tỷ
lệ nắm giữ sở hữu của người nước ngoài. Những lĩnh vực này chỉ có thể là
hai nhóm: hoặc là dầu khí hoặc là có liên quan đến an ninh và quốc
phòng mà thôi. Các ngành nghề khác phải được hội nhập ở mức cao nhất kể
cả trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông v.v. Trong
những lĩnh vực này nhà đầu tư nước ngoài có thể nắm giữ tỷ lệ sở hữu ở
mức cao nhất là 100%.
Đương nhiên câu hỏi mà nhiều người luôn đặt ra như là
một kênh phản biện chính sách, đó là vấn đề an ninh quốc gia. Câu trả
lời ở đây lại liên quan đến các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành
vi rửa tiền, bảo vệ các cổ đông thiểu số, các hành vi đào thoát vốn cùng
với các vấn đề khác có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Đây là một thách
thức không nhỏ cho các nhà hoạch định chính sách trong thời gian tới.
Tuy nhiên không thể chờ đến khi nào hệ thống pháp luật của chúng ta hoàn
chỉnh việc hội nhập mới ở mức cao nhất. Quá trình hội nhập thậm chí có
thể đi trước một bước như là một sức ép lên các nhà lập pháp. Càng chờ
đợi, nguy cơ tụt hậu – vốn đã xa lắm rồi- giờ đây lại còn có khả năng bị
bỏ rơi (xin xem xếp hạng chỉ số tự do hóa kinh tế ở phần cuối của bài
viết này để thấy rằng Campuchia giờ đây cũng đã hơn xa VN về mức độ tự
do hóa kinh tế).
Điểm về dòng vốn và đầu tư nước ngoài thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp trong năm 2005: 4 điểm.
4. Gánh nặng tài khóa
Tham nhũng lãng phí và thất thoát trong đầu tư xây
dựng cơ bản chứ không phải thuế đã làm tăng gánh nặng tài khóa lên công
chúng. Theo quan điểm thuần túy thị trường, nếu mức thuế mà Chính phủ áp
đặt càng cao lên các cá nhân và các doanh nghiệp thì những thành quả mà
các cá nhân và doanh nghiệp nhận về sẽ càng ít đi và do đó, nếu xét
theo nghĩa này, sẽ càng ít khuyến khích công chúng tham gia vào các hoạt
động tạo ra của cải vật chất của nền kinh tế. Mức độ tự do hóa kinh tế
do vậy cũng giảm theo tương ứng. Trong khi đó, nếu như những khoản tăng
lên trong chi tiêu của Chính phủ cứ thay đổi hết từ năm này sang năm
khác thì cuối cùng các khoản chi tiêu này cũng sẽ được tài trợ thông qua
việc tăng thuế ngay bây giờ, hoặc là trong tương lai thông qua việc
tăng cung tiền tệ, hoặc Chính phủ bắt buộc phải vay nợ. Cho dù như thế
nào đi chăng nữa, nguồn tài trợ cho các chi tiêu của Chính phủ cuối cùng
rồi cũng sẽ chuyển dịch sang công chúng gánh chịu. Đó là chưa kể, các
chi tiêu tăng lên nhiều hơn sẽ đẩy giá cả nguyên vật liệu, lao động và
những thứ khác tăng vọt dẫn đến lạm phát cao. Quá trình này tạo ra cái
mà các nhà kinh tế gọi là gánh nặng tài khóa. Như vậy khi Chính phủ tăng
(hoặc giảm) chi tiêu, Chính phủ sẽ làm giảm (hoặc tăng) mức độ tự do
hóa nền kinh tế.
Những quan niệm như thế dẫn đến lập luận cho rằng mức
độ tự do kinh tế của một quốc gia thường thể hiện qua các chỉ số về
thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp và phần trăm chi tiêu
ngân sách chiếm trong GDP.
Các đánh giá cho thấy các chỉ số này của VN đã có
nhiều tiến bộ. Thuế suất thuế thu nhập cao nhất đã giảm từ 50% xuống còn
40%. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất giảm từ 32% xuống
còn 28%. Chi tiêu ngân sách chiếm khoảng 26% GDP và có xu hướng giảm đi
trong những năm vừa qua.
Thật nghịch lý khi thuế khóa đáng lý phải là một gánh
nặng tài khóa đè lên công chúng thì chúng lại được đánh giá là có nhiều
tiến bộ. Trong khi đó, điều đáng quan ngại nhất hiện nay là tình trạng
tham nhũng lãng phí và thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản hiện đang
là thách thức lớn nhất đối với VN trong việc giảm bớt các gánh nặng tài
khóa lên công chúng. Bởi suy cho cùng những chi tiêu lãng phí, tham
nhũng và thất thoát lớn trong đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay cuối cùng
rồi cũng sẽ tạo nên sức ép lên tăng thu thông qua thuế khóa. Chính vì
thế điểm về gánh nặng tài khóa của chúng ta vẫn còn ở mức rất thấp và
dưới trung bình.
Điểm về gánh nặng tài khóa thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp trong năm 2005: 3,8 điểm.
5. Quy tắc
Điểm về các quy tắc của VN trong các báo cáo thường
niên của các tổ chức quốc tế thường nhấn mạnh đến tính không minh bạch
trong những quy định pháp lý và công bố thông tin và tình trạng tham
nhũng lan tràn ở mọi cấp mọi ngành. Chỉ đơn cử luật cạnh tranh mà Quốc
hội mới thông qua năm 2004 cũng đã thấy có quá nhiều điều để dẫn đến
những bất quy tắc trong hệ thống pháp luật hiện hành.
Vận động hậu trường đã trở thành phổ biến trong mọi khía cạnh của nền kinh tế.
Những rắc rối trong quan niệm về cạnh tranh ở VN liên
quan đến việc đánh giá để phân biệt được hai khái niệm rất khác nhau:
cạnh tranh lành mạnh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Nhưng như
thế nào là cạnh tranh không lành mạnh lại không được xác định rõ ràng,
điều này rõ ràng đã làm cho luật cạnh tranh của chúng ta khá khập
khiễng. Một nỗi lo khác là các doanh nghiệp còn e ngại rằng liệu rồi đây
ai sẽ là cơ quan đứng ra kiểm tra, thụ lý và xử lý các hành vi vi phạm
cạnh tranh.
Khả năng quản lý độc quyền của Chính phủ là câu hỏi
mà các doanh nghiệp rất quan tâm. Có lẽ, cách tốt nhất là về lâu về dài
Chính phủ nên hạn chế tối đa sự can thiệp vào thị trường, không quản lý
độc quyền, thay vào đó nên giải tỏa độc quyền và để cho thị trường tự do
tự giải quyết. Truyền thống ở VN thường có thông lệ là cơ quan quản lý
nhà nước thường cũng là cơ quan thụ lý và xử lý các lĩnh vực do mình phụ
trách, trong trường hợp này là Bộ thương mại cũng là cơ quan quản lý
cạnh tranh. Việc trao cho cơ quan quản lý cạnh tranh là Bộ thương mại có
quá nhiều quyền lực trong bối cảnh cơ chế quản lý nhà nước về kinh tế
vẫn còn nhiều bất cập như hiện nay càng có nguy cơ dẫn đến những méo mó
trong các quy tắc mà Quốc hội đã cố công ban hành.
Liệu rồi đây có còn dẫn tới những bất hợp lý hay
không trong phân biệt đối xử hành vi vi phạm luật cạnh tranh giữa các
DNNN thuộc Bộ thương mại với các DNNN thuộc các Bộ khác và giữa các DNNN
với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh? Đây là câu hỏi được rất
nhiều các nhà đầu tư quan tâm nhưng vẫn chưa có những lý giải thỏa đáng
từ phía Chính phủ.
UNDP cũng tỏ ra quan ngại về tình trạng cạnh tranh
khốc liệt kiểu cá lớn nuốt các bé ở VN ngay sau khi có luật cạnh tranh.
Theo họ để bảo vệ người dân, cần thiết cho phép hình thành nhiều hiệp
hội và các tổ chức phi Chính phủ thực hiện vai trò giám sát đối với khu
vực doanh nghiệp vì lợi ích của công chúng để đảm bảo tính độc lập của
cơ quan quản lý cạnh tranh.
Chính những điểm không rõ ràng như trên làm cho các
nhà đầu tư dễ dẫn đến những suy diễn cho rằng có lẽ sẽ có lợi hơn nếu
vận động hậu trường để được bảo hộ và nhân nhượng hơn là lập kế hoạch
hoạt động dựa trên những kỳ vọng hợp lý hoặc theo những quy tắc pháp lý.
Sự kiện “không minh bạch” ở tầm vĩ mô trong việc cung cấp quota của Bộ
thương mại vào năm 2004 là một đòn khá đau đánh vào những nỗ lực cải
cách trên con đường tiến tới minh bạch hóa và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn
các bất quy tắc đang len lỏi vào mọi ngõ ngách của nền kinh tế.
Điểm về các quy tắc thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp nhất trong năm 2005: 5 điểm.
6. Chính sách tiền tệ
Nỗi lo về khả năng kiểm soát lạm phát của Chính phủ.
Chính sách tiền tệ chỉ là một mặt của chính sách tài khóa tiền tệ. Chính
sách tiền tệ khó lòng tự chủ khi mà các tác động của Chính phủ cho tăng
trưởng kinh tế thông qua các khoản chi cho đầu tư phát triển vẫn còn
quá eo hẹp.
Trong khi đó, chính sách tỷ giá hiện vẫn mới dừng lại
ở mức độ “bám sát thị trường” chứ chưa thực sự “theo kịp tín hiệu thị
trường”. Về mặt nguyên lý, tỷ giá theo dấu các tín hiệu của thị trường
hàm ý đến các dự báo của nền kinh tế đều được thị trường kỳ vọng và đặt
hết vào trong tỷ giá giao ngay hiện tại. Tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi
mặc dù các diễn biến thị trường lúc đó không biến động. Chúng khác hoàn
toàn với cơ chế tỷ giá “bám theo thị trường” như chúng ta dường như đã
thực hiện trong thời gian qua.
Tỷ giá hầu như bị nêm chặt vào mục tiêu kiểm soát lạm
phát và do đó chúng liên tục được các quan chức NHNN can thiệp trấn an
và dự báo thay cho các tổ chức tư vấn rằng: tỷ giá sẽ không vượt quá một
tỷ lệ % nào đó cho mỗi niên độ. Ai cũng biết tỷ giá và lãi suất là cặp
phạm trù tương thích nhau, cho nên một khi tỷ giá chưa theo kịp những
tín hiệu của thị trường thì lãi suất cũng không thể tự do hóa hoàn toàn
được, như tuyên bố của các quan chức NHNN. Do vậy, loay hoay mãi chúng
ta cũng chỉ mới đổi mới về mặt hình thức trong các phương thức điều hành
lãi suất. Trên thực tế, các mức lãi suất trên thị trường vẫn chưa phản
ảnh đúng các quan hệ cung cầu về vốn và lãi suất ngoại tệ vẫn chưa được
tự do hóa hoàn toàn.
Trong môi trường hội nhập, tự do hóa kinh tế phải dựa
vào các chính sách tiền tệ toàn diện và một hệ thống tỷ giá hướng về
thị trường, chứ không phải một chính sách thương mại có lựa chọn và một
hệ thống tỷ giá bị kìm hãm với nhiều hạn chế để điều chỉnh sự mất cân
đối trong cung cầu ngoại tệ. Một chính sách tỷ giá theo hướng khẳng định
như thế, trên thực tế, không khác gì một chính sách tỷ giá có sự can
thiệp quá sâu của Nhà nước. Can thiệp luôn luôn là cần thiết, nhưng cụ
thể đến mức công bố đến chính xác từng tỷ lệ % nhỏ như các khẳng định
thường kỳ của Thống đốc NHNN thì dễ mâu thuẫn với những gì mà chính các
vị này đã nhiều lần phát biểu rằng “sẽ điều hành chính sách tỷ giá theo
những tín hiệu của thị trường”. IMF ắt hẳn đã rất không hài lòng về các
phát biểu tréo ngoe này trong điều hành tỷ giá ở VN.
Chúng ta không phê phán chính sách tỷ giá quá mức cố
định và cứng nhắc theo kiểu công bố chính thức một biên độ nào đó trong
một năm – Chính phủ của nhiều nước cũng đã và đang thực hiện một cơ chế
điều hành tỷ giá như trên và cũng đã từng thành công không ít – nhưng
vấn đề ở chỗ là kèm theo đó: Chính sách điều hành tỷ giá của VN hiện
đang được các quan chức NHNN công khai khẳng định theo hướng một chính
sách tỷ giá thả nổi có quản lý. Có thể hiểu phát biểu này rằng, có khả
năng trong tương lai hay bất cứ vào lúc nào, Chính phủ sẽ mặc nhiên để
cho tỷ giá biến động và rơi tự do theo các diễn biến của thị trường. Như
vậy một mặt chúng ta luôn khẳng định tỷ giá sẽ không thể nào vượt quá
một biên độ hẹp nào đó, mặt khác chúng ta lại tuyên bố về một khả năng
để ngỏ trong tương lai có khả năng tỷ giá sẽ thả nổi (tuy rằng có sự can
thiệp của Chính phủ). Những phát biểu không nhất quán như trên sẽ làm
cho thị trường không có khả năng lường trước hết các kịch bản xảy ra
trong tương lai trên các diễn biến của tỷ giá.
Tóm lại, khả năng không thể dự báo được về các biến
động trong tỷ giá mới chính là điều mà thị trường lo lắng nhất trong
chính sách tiền tệ nói chung và trong điều hành tỷ giá hiện nay nói
riêng ở VN.
Mặc dù vậy, nếu chỉ xét riêng các kết quả trong điều
hành chính sách tiền tệ thông qua kiểm soát lạm phát, VN đã được các tổ
chức quốc tế như IMF đánh giá khá cao với số liệu công bố của IMF về tỷ
lệ lạm phát trung bình hàng năm giai đoạn 1994 đến 2003 là khá thấp, chỉ
ở mức 2,96%.
Tuy nhiên điểm về các chính sách chống lạm phát vẫn
còn chưa tính đến tình trạng lạm phát tăng lên ở mức đáng ngại, gần 10%
trong năm 2004 và những diễn biến mới nhất về sự hình thành một xu hướng
tăng giá tiêu dùng dồn dập dường như là tuân theo một lộ trình đã được
sắp đặt sẵn trong những tháng tháng đầu năm 2005. Đây thực sự là một
nguy cơ làm hạn chế tăng trưởng của chúng ta trong tương lai.
Điểm về chính sách tiền tệ thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng cao năm 2005: 1 điểm.
7. Tài chính ngân hàng
Độc quyền tuyệt đối trong ngành ngân hàng và vẫn chưa
xác định rõ hiện ai đang là chủ sở hữu các NHTMQD. Ngành ngân hàng của
VN bị chi phối bởi 4 NHTMQD lớn. Bốn ngân hàng này chiếm khoảng 70% thị
phần cho vay trong nước. Nhóm cho vay lớn thứ hai là các ngân hàng nước
ngoài với thị phần 15%, tiếp theo là ngân hàng cổ phần với 12%, và các
ngân hàng liên doanh đóng góp 3%.
Tín dụng ngân hàng chủ yếu vẫn tập trung cho các
DNNN, hiện nay hơn 50% danh mục cho vay của các NHTMQD là dành cho các
DNNN. Trong khi đó, các ngân hàng nước ngoài chủ yếu cung cấp các dịch
vụ tài chính cho hoạt động của các công ty đa quốc gia ở VN hơn là tham
gia vào cạnh tranh giành các dịch vụ đối với các công ty nội địa. Các
ngân hàng cổ phần vẫn là nguồn chủ yếu phục vụ cho khu vực tư nhân trong
nước, chiếm khoảng 12% thị phần tín dụng ngân hàng. Thực trạng trên cho
thấy có thể hiện nay chúng ta vẫn chưa có một sân chơi bình đẳng cho
các loại hình ngân hàng khác nhau.
“Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2005” của WB đã đặc
biệt lưu ý đến tốc độ cải cách chậm trễ trong khu vực ngân hàng khi cho
rằng “Đến giờ vẫn chưa rõ ràng ai là chủ sở hữu các NHTMQD. Rất nhiều
chi nhánh NHTMQD thường xuyên bị ảnh hưởng bởi chính quyền địa phương
trong việc đưa ra các quyết định cho vay. Họ không được tự quyết các
khoản vay dựa trên cơ sở thẩm định độ rủi ro của dự án”.
Bằng những khảo nghiệm ở nhiều quốc gia trên thế giới
“Báo cáo phát triển thế giới 2005” của WB còn có những khuyến cáo rằng
“Việc có một tỷ lệ lớn sở hữu nhà nước trong khu vực ngân hàng đã làm
giảm tiếp cận việc cấp vốn nói chung, giảm cạnh tranh, làm tồi tệ thêm
việc phân bổ tín dụng và làm tăng khả năng khủng hoảng tài chính”.
Điểm về tài chính ngân hàng thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp năm 2005: 4 điểm.
8. Quyền sở hữu
Nhà đầu tư mất niềm tin nơi hệ thống tòa án trong các
tranh chấp về quyền sở hữu. Điểm về quyền sở hữu của VN được hầu hết
các tổ chức xếp hạng quốc tế như Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) và tổ
chức xếp hạng tự do hóa kinh tế và nhiều tổ chức xếp hạng khác đánh giá
rất thấp. Các tổ chức này cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn
thiếu niềm tin nơi hệ thống tòa án VN trong việc xét xử các tranh chấp
thương mại và quyền sở hữu. Họ rất mất niềm tin nơi hệ thống tòa án của
chúng ta và thường yêu cầu các tranh chấp xảy ra phải được đưa ra xét xử
tại tòa án kinh tế Singapore.
Điểm về quyền sở hữu thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp nhất trong năm 2005: 5 điểm.
9. Can thiệp của Chính phủ
Can thiệp của Chính phủ hầu như hiện diện trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Toàn bộ các phân tích ở các nhóm nhân tố trên đều cho
thấy sự can thiệp của Chính phủ hầu như hiện diện trong mọi lĩnh vực
của nền kinh tế, từ các kiểm soát giá cả, tỷ giá đến những bất quy tắc
trong luật lệ dẫn đến cái lệ cho các cuộc vận động hậu trường. Can thiệp
của Chính phủ còn thể hiện thông qua tình trạng độc quyền trong những
ngành dịch vụ quan trọng của Nhà nước như viễn thông, tài chính ngân
hàng v.v.
Ngoài ra can thiệp của Chính phủ thể hiện rõ nét
trong quan hệ của Chính phủ với khu vực DNNN. Cải cách DNNN luôn là vấn
đề trung tâm, và là một trong những bước đi đầu tiên trên con đường hội
nhập. Cải cách DNNN được giới quan sát trong và ngoài nước đánh giá là
hầu như dẫm chân tại chỗ, vẫn còn có quá nhiều thông tư, nghị định về
cải cách DNNN nhưng chưa cho thấy có những tín hiệu tốt hơn. Nói cách
khác can thiệp của Chính phủ trong khu vực kinh tế quốc doanh vẫn chưa
theo kịp với những yêu cầu và các cam kết của quá trình hội nhập cho dù
đã đạt được những tiến bộ nhất định.
Điểm về sự can thiệp của Chính phủ thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp trong năm 2005: 3,5 điểm.
10. Hoạt động của thị trường không chính thức
Hoạt động của thị trường không chính thức hiện diện
trên mọi loại thị trường hàng hóa dịch vụ và thị trường tiền tệ. Sự tồn
tại của thị trường không chính thức suy cho cùng chính là do kết quả từ
các hoạt động can thiệp quá sâu của Chính phủ vào nền kinh tế, giống như
những gì mà chúng ta đã phân tích trong các phần trên. Những cấm đoán
hoặc hạn chế của Chính phủ ở một khu vực này có khả năng sẽ tạo ra một
thị trường không chính thức ở khu vực khác. Các quy tắc không minh bạch
mà chúng ta đã phân tích trước đây trong phân phối quota sẽ tạo ra một
thị trường mua bán ngầm và chuyển nhượng bất hợp pháp quota trên thị
trường không chính thức; các rào cản tiếp cận ngoại tệ trên các giao
dịch ngoại hối đã làm xuất hiện tình trạng thị trường ngoại tệ chợ đen –
một dạng của thị trường không chính thức – đã dẫn tới hiện tượng đôla
hóa nền kinh tế ở mức cao v.v..
Điểm về hoạt động của thị trường không chính thức thông qua chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng thấp trong năm 2005: 4 điểm.
11. Có tự do kinh tế ở VN hay không?
Hầu như không có tự do kinh tế. Những đánh giá thông
qua 10 nhóm nhân tố ở phần trên cho thấy tất cả, ngoại trừ chính sách
tiền tệ, đều ở thang điểm dưới mức trung bình. Riêng chính sách tiền tệ,
mặc dù vẫn ở thang điểm đánh giá cao do những nỗ lực trong kiểm soát
lạm phát nhưng theo nhiều nghiên cứu những thành quả này có được là do
những nguyên nhân khách quan nhiều hơn do hiện tượng giảm phát chung của
nền kinh tế toàn cầu trong khoảng 10 năm gần đây, kể từ sau cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á vào năm 1997.
Do bị đánh giá thấp một cách toàn diện như trên, chỉ
số xếp hạng tự do kinh tế đã đánh giá nền kinh tế VN là hầu như không có
tự do kinh tế (điểm xếp hạng từ 3 đến 3,99 được xem là hầu như không có
tự do kinh tế). Điều đáng ngại hơn nữa là nếu so sánh với các nước
trong khu vực thì môi trường tự do kinh tế của VN hiện đang đứng ở vị
thế thấp nhất và thua xa so với Campuchia, một quốc gia chỉ mới là thành
viên của WTO trong vài năm gần đây và được xếp hạng có môi trường tự do
hóa kinh tế ở mức cao.
Điểm trung bình chỉ số tự do kinh tế được xếp hạng năm 2005: 3,83 điểm. Và cho cả giai đoạn 1995-2005 là 4,6 – 3,83 điểm.
Xếp hạng chung: 137/161 quốc gia
Kết luận
Không nên chỉ tìm cách biện hộ rằng những báo cáo và
các đánh giá trên là chưa phản ánh hết những thành tựu trong thời gian
qua. Hoặc như các cơ quan chức năng thường viện dẫn cho rằng số lượng
mẫu mà các tổ chức quốc tế khảo sát là chưa đúng và chưa đủ – những phản
ứng thường thấy từ phía các quan chức mỗi khi các tổ chức xếp hạng quốc
tế có những đánh giá xấu về môi trường đầu tư của VN. Cách tốt nhất có
lẽ là chúng ta nên tự nhìn lại chính mình một cách nghiêm túc.
Một điều nghịch lý ở VN hiện nay là nếu chỉ xét riêng
từng khu vực hoặc từng lĩnh vực thì nền kinh tế hiện đang có những bước
tự do hóa quá trớn: như các phát triển tự phát của các bộ ngành và địa
phương trong việc xây dựng các nhà máy đường, nhà máy xi măng, cảng
biển. Trong lĩnh vực ngân hàng, dường như ai cũng có thể làm ngân hàng
được với hệ thống các NHTM phát triển bất chấp vốn điều lệ đăng ký vẫn
còn quá thấp so với chuẩn mực quốc tế.
Vẫn còn có thể liệt kê biết bao nhiêu nữa những ví dụ
minh họa về tình trạng tự do hóa quá trớn như thế trong nền kinh tế.
Nhưng trong quá trình phát triển của mình, tự bản thân các xu thế trong
từng lĩnh vực như thế, khi tập hợp tất cả chung lại với nhau, lại bị
triệt tiêu lẫn nhau do những mâu thuẫn hoặc các tiến triển không đồng bộ
với nhau về mặt không gian, thời gian, hoặc về các quy định pháp lý,
hoặc so với các chuẩn mực và các cam kết quốc tế về hội nhập.
Tự do hóa quá trớn và vô chính phủ để rồi không có tự
do, bởi tất cả đã phủ định lẫn nhau. Phải chăng đây còn là một cách
nhìn nhận khác nữa về vị thế hầu như không có tự do kinh tế ở nước ta
ngoài phương pháp đánh giá của tổ chức quốc tế về xếp hạng tự do kinh tế
ở VN? ª
Tài liệu tham khảo
- Trần Ngọc Thơ, Kinh tế VN trên đường hội nhập – Quản lý quá trình tự do hóa tài chính, NXB Thống kê 2005.
- http://www.heritage.org/about/ advanced- search.cfm.
- Báo cáo của Bộ Thương mại Mỹ về tình trạng kinh tế thị trường/phi thị trường của VN.
- Báo cáo phát triển thế giới 2005 của WB.
- Báo cáo phát triển Việt Nam 2005 của WB.
- Việt Nam hướng tới 2010 của UNDP.
SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 176, THÁNG 6/2005
0 comments:
Post a Comment