TS. NGUYỄN ĐẠI LAI
“Có
3 phát minh vĩ đại từ khi bắt đầu sự sống của loài người: lửa, bánh xe
và Ngân hàng Trung ương” – Will Rogers, một nhà văn hài hước người Mỹ đã
vui tính tổng kết như thế. Từ một góc nhìn cụ thể của nền kinh tế hàng
hoá về Ngân hàng Trung ương (NHTW), đa số chúng ta nhất định phải thốt lên: Đúng vậy!
NHTW
như chúng ta biết ngày nay thực sự là một trong những phát minh lớn
nhất trong thế kỷ 20 – Lần đề cập đầu tiên được ghi nhận bằng tiếng Anh
với khái niệm là “NHTW – Centrol Bank” vào năm 1873 do Walter Bagehot,
sau này là Tổng biên tập của tờ báo The Economist Anh quốc, người đã sử
dụng cụm từ “Centrol Bank” để đề cập đến một ngân hàng có sự độc quyền
trong việc phát hành giấy bạc ngân hàng, và trụ sở chính của nó cần phải
đặt tại Thủ đô hoặc Trung tâm tài chính của một quốc gia. Chỉ trong
thời gian 50 năm sau đó và nhất là từ giữa thế kỷ 20 đến nay, thuật ngữ
này đã được sử dụng rộng rãi trên phạm vi quốc tế. Vào những năm đầu thế
kỷ 20, trên thế giới chỉ có 18 NHTW, thì hiện nay con số này đã là 173
NHTW.
Nhiệm
vụ ban đầu của NHTW không phải là việc thực thi CSTT hay hỗ trợ hệ
thống các ngân hàng trung gian, mà chỉ đơn giản là tài trợ cho chi tiêu
của Chính phủ. NHTW lâu đời nhất trên thế giới là Ngân hàng Thuỵ Điển –
The Centrol Bank of Sweden, được thành lập vào năm 1668 và sứ mệnh ban
đầu được sử dụng như là một công cụ để bù đắp các khoản chi tiêu quân
sự. NHTW “già” thứ hai là NHTW Anh quốc – The Centrol Bank of England
được thành lập năm 1694 nhằm tài trợ cho cuộc chiến tranh với Pháp. Thậm
chí gần đây vào những năm 40s của thế kỷ 20, Bộ trưởng Bộ tài chính của
Anh thuộc phe Công đảng đã rất hài lòng khi mô tả rằng Ngân hàng Anh
quốc như là “ngân hàng của mình! “. Ngày nay hầu hết các NHTW đã được
Luật định: “không được phép tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách của
Nhà nước”.
Hoa
Kỳ đã quản lý nền kinh tế của mình mà không có NHTW cho tới đầu thế kỷ
20. Các ngân hàng tư nhân thường phát hành những đồng tiền giấy và tiền
xu của bản thân. Hậu quả là các cuộc khủng hoảng ngân hàng đã diễn ra
khá thường xuyên. Chỉ riêng ở nước Mỹ vào năm 1791 có tới 7000 loại tiền
– Đã làm ách tắc sản xuất, lưu thông. Người có đủ năng lực giải quyết
mâu thuẫn này chính là Nhà nước và từ đây Nhà nước đã can thiệp với mức
độ nhất định vào hoạt động Ngân hàng bằng cách ban hành các đạo luật chỉ
cho phép một số ngân hàng đủ điều kiện qui định mới được phép phát hành
kỳ phiếu Ngân hàng. Nhưng sau thời kỳ các cuộc khủng hoảng trầm trọng
diễn ra liên tục, Quỹ Dự trữ liên bang Mỹ – The Federal Reserve mới được
thành lập vào năm 1913 để trở thành NHTW duy nhất được phát hành tiền
tại Mỹ và chủ yếu giữ quyền lực trong giám sát các ngân hàng và hoạt
động với tư cách là người cho vay cuối cùng. Ngày nay Quỹ Dự trữ liên
bang Mỹ là một trong số ít những NHTW vẫn còn giữ trách nhiệm giám sát
ngân hàng; tại phần lớn các quốc gia trên thế giới thì công việc này đã
được giao cho một Uỷ Ban độc lập của Nhà nước.
Thời
kỳ các NHTW được gọi là bước vào thời kỳ NHTW hiện đại chính là từ khi
hoạt động của các NHTW tập trung chức năng, quyền lực tối cao vào việc
thực thi chính sách tiền tệ. Bắt đầu cho thời kỳ này cũng mới rất gần
đây, vào những năm đầu thập niên 70s của thế kỷ 20, khi mà mối liên hệ
ban đầu giữa tiền và vàng cuối cùng đã bị phá vỡ và hệ thống Bretton
Woods về chế độ tỷ giá hối đoái cố định bị sụp đổ hoàn toàn vào năm
1971. Khi các quốc gia dựa vào chế bộ bản vị vàng hay các tỷ giá bị cố
định thì chính sách tiền tệ bị thúc ép bởi nhu cầu duy trì các cân đối
hàng – tiền. Chỉ từ khi các tỷ giá hối đoái đã được phép thả nổi thì mỗi
quốc gia đã có thể bắt đầu thực hiện chính sách tiền tệ của riêng mình
dựa chủ yếu trên quan hệ cung – cầu của bản thân tiền tệ.
Đầu
tiên, các chính phủ của các quốc gia nắm giữ quyền kiểm soát chặt chẽ
các phương tiện kiểm soát tiền tệ, Chính phủ luôn “ra lệnh” cho các NHTW
phải thay đổi lãi suất cho phù hợp với tình hình. Nhưng khi lạm phát
liên tục bùng nổ, Chính phủ mới nhận thấy được tầm quan trọng của việc
duy trì tính độc lập của NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Các nhà chính trị dường như cố tạo ra một sự bùng nổ (đột biến) trước
khi có cuộc bầu cử, hy vọng rằng lạm phát sẽ không gia tăng cho đến sau
khi cuộc kiểm phiếu đã hoàn tất, nhưng một NHTW độc lập cách biệt với
những sức ép chính trị sẽ phải ưu tiên thường xuyên, thậm chí duy nhất
về mục tiêu hoạt động trong việc bình ổn giá cả. Do vậy, nếu có được một
sự độc lập với Chính phủ, thì các chính sách sẽ trở nên linh hoạt hơn,
người lao động và các Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh mức lương và giá cả cho
phù hợp với việc thắt chặt về chính sách. Những cuộc tranh luận diễn
ra, sức ép của thị trường thông qua các quan hệ lợi ích của người sử
dụng tiền sẽ buộc NHTW phải cắt giảm lạm phát tới mức tổng thiệt hại
phải là nhỏ nhất về sản lượng, thu nhập và công ăn việc làm. Do vậy,
nhiều công trình nghiên cứu trong những năm đầu thập niên 1990s đã thừa
nhận rằng những quốc gia có NHTW độc lập thực sự thì tại quốc gia đó có
xu hướng là mức lạm phát sẽ ở mức đủ thấp một cách hợp lý nhất.
Tuy
nhiên cho đến nay hầu như chưa có một NHTW nào là độc lập hoàn toàn.
Trước khi NHTW châu Âu ECB được thành lập, Ngân hàng Trung ương Đức –
German Bundesbank là ngân hàng có tính độc lập cao nhất trên thế giới,
nhưng Chính phủ Đức vẫn đã bỏ qua lời khuyên của ngân hàng này trong
việc thiết lập một cơ chế tỷ giá thích hợp cho việc thống nhất tiền tệ,
và sau đó nước Đức đã phải gánh chịu những sức ép về lạm phát. Các NHTW
khác, như ngân hàng Anh quốc, được trao sự độc lập hoàn toàn trong việc
thiết lập chính sách tiền tệ, nhưng mục tiêu lạm phát lại do Chính phủ
đề ra.
Các
NHTW độc lập hầu như kiểm soát được mức lạm phát thấp hơn những dự đoán
của các Bộ trưởng tài chính. Nhưng sự độc lập này không phải là phương
thuốc chữa bách bệnh: NHTW cũng sẽ có thể mắc các sai lầm. Một ví dụ
minh hoạ đó là ngân hàng Reichsbank của Đức vẫn độc lập như luật định
khi mà nước Đức rơi vaò thời kỳ siêu lạm phát trong những năm 1923
-1927. Đơn giản là khi nền sản xuất vì lý do bất khả kháng đã rơi vào
tình trạng kiệt quệ, người dân không thể kiếm được đủ ăn hàng ngày khi
trong tay đang sẵn có tiền thì tiền cũng trở nên vô nghĩa! Hàng do đó
mới là cái quyết định sức mua của tiền, còn tiền chỉ là chuẩn mực của
phân phối khi mà nền kinh tế có đầy đủ cái để phân phối và một cơ chế
thị trường.
Thời
xa xưa, các thuỷ thủ khi đi biển đều mang một niềm tin rằng Trái đất
bằng phẳng và lo lắng sẽ có lúc họ bị rơi ra khỏi bờ của Trái đất. May
thay, việc phát hiện ra Trái đất hình tròn đã xoá đi nỗi u uất đó. Những
tư tưởng kinh tế về chính sách tiền tệ và lạm phát cũng xảy ra tương tự
như vậy. Rút cuộc là nền sản xuất nói chung chứ không phải bản thân
NHTW cứu vãn được điều đó. Tuy vậy, sự phát minh ra NHTW không phải ngẫu
nhiên mà được ví như một trong những phát minh vĩ đại nhất của loài
người! Lịch sử đã sàng lọc tự nhiên và suy tôn một Ngân hàng thông
thường thành NHTW với tư cách là Ngân hàng giỏi nhất trong các Ngân hàng
hiện có, được Nhà nước và cộng đồng giao cho quyền lực phát hành duy
nhất đồng tiền quốc gia và chi phối tất cả các Định chế trung gian tài
chính còn lại thông qua các nghiệp vụ của mình – Các nghiệp vụ có lợi
nhuận và vô vị lợi đều mang tính Nhà nước và bị cộng đồng kiểm soát trở
lại đối với NHTW bằng sự ổn định hay không sức mua của đồng tiền do NHTW
phát hành.
Trong
thập niên 1960s, chính sách tiền tệ đã được chứng minh là tác nhân trực
tiếp có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nền tảng lý thuyết của cơ sở
này là đường cong Phillips, đặt tên theo Bill Phillips, nhà kinh tế học
người New Zealand theo học tại trường Đại học Kinh tế London. Ông
Phillips, cũng là một kỹ sư cơ khí, đã tạo ra một cỗ máy nhằm biểu diễn
cơ chế hoạt động của các nền kinh tế, sử dụng nước để biểu thị khái niệm
về tính lỏng. Năm 1958 ông ta đã khởi xướng một công trình nghiên cứu
trong đó chỉ ra rằng trong giai đoạn 1861 đến 1957, một số dạng của sự
thoả hiệp giữa việc tăng lương và thất nghiệp dường như đã được sử dụng ở
nước Anh: khi tỷ lệ thất nghiệp cao, lạm phát thấp và…hình như đó là
một qui luật. Điều đó dường như đã làm chúng ta ngộ nhận để suy đoán
rằng các NHTW có thể thường xuyên cắt giảm được tỷ lệ thất nghiệp thông
qua việc nới lỏng tỷ lệ lạm phát?
Một
thập niên sau đó, Milton Friedman và Edmun Phels, đã thách thức với lý
thuyết này. Về sự thoả hiệp giữa lạm phát và thất nghiệp, hai nhà khoa
học này cho rằng, chỉ có tính xu hướng đúng trong ngắn hạn, và rằng đó
không phải là một qui luật. Các nhà kinh tế này đã chứng minh: Một khi
mọi người đều thấm đẫm mồ hôi bởi tỷ lệ lạm phát cao hơn, họ sẽ đòi hỏi
tiền lương cao hơn. Đến lượt nó, sức mua của một đơn vị tiền tệ nhỏ dầối
với mệnh giá cũ cũng sẽ là quá trình xoá dần những “ân huệ” tăng lương
trước đó và thất nghiệp vì vậy sẽ tăng trở lại lên tới tỷ lệ “thất
nghiệp tự nhiên”. Sức mua của một đơn vị tiền tệ do đó có khả năng đo
lường hiệu quả của thị trường lao động. Nghĩa là sẽ không có và không
thể ảo tưởng về sự thoả hiệp mang tính lâu dài giữa lạm phát và thất
nghiệp: Trong dài hạn, chính sách tiền tệ sẽ quyết định trạng thái của
lạm phát. Nếu các nhà hoạch định chính sách ra sức cố gắng duy trì thất
nghiệp dưới mức thất nghiệp tự nhiên (cũng được biết dưới thuật ngữ viết
tắt, NAIRU…) thì lạm phát sẽ bị đẩy lên cao hơn ngoài ý chí chủ quan
mong muốn.
Đúng
như hai ông Friedman và Phelps đã dự đoán, mức lạm phát có liên quan
tới tỷ lệ thất nghiệp đã tăng trong suốt giai đoạn những năm 1970s, và
các nhà hoạch định chính sách đã phải từ bỏ mô hình đường cong Phillips.
Ngày nay, mọi người đều nhất trí rộng rãi rằng chính sách tiền tệ nên
tập trung vào việc duy trì mức lạm phát thấp. Nhưng điều này không có
nghĩa là, như thường được hiểu, rằng các NHTW là “những người thu nhặt
lạm phát”, …mà phải hiểu rằng NHTW là người chịu thiệt thòi vì buộc phải
chịu trách nhiệm trước người lao động về tình trạng lạm phát vượt quá
những ngưỡng cho phép.
Nếu
không có sự thoả hiệp có tính dài hạn, lạm phát thấp thường không làm
cản trở thường xuyên sự tăng trưởng. Hơn thế nữa, qua việc duy trì lạm
phát thấp và ổn định, một NHTW, về thực tế, đã duy trì ổn định sản lượng
và việc làm. Ngài Don Brash, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ New Zealand, đã
diễn giải cơ chế hoạt động của điều đó thông qua sử dụng biểu đồ NAIRU:
Đường thẳng thể hiện mức tăng trưởng của sản lượng khi nền kinh tế duy
trì sự ổn định trong dài hạn; đường cong lượn sóng thể hiện sản lượng
thực tế. Khi nền kinh tế sản xuất dưới mức tiềm năng (ví dụ, thất nghiệp
cao hơn mức NAIRU), tại điểm A, lạm phát sẽ giảm cho tới khi “khe hở
sản lượng” bị loại bỏ. Khi sản lượng vượt quá mức tiềm năng, tại điểm B,
lạm phát sẽ tăng do cầu vượt quá khả năng sản xuất. Khi lạm phát đang
giảm (điểm A), thì các NHTW sẽ cắt giảm lãi suất nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm; khi lạm phát đang tăng lên (điểm
B), các NHTW sẽ tăng tỷ lệ lãi suất nhằm giảm bớt mức tăng trưởng. Như
vậy, nếu chính sách tiền tệ tập trung vào việc duy trì lạm phát ổn định ở
mức thấp, thì điều đó sẽ tạo điều kiện cho việc tạo công ăn việc làm và
duy trì tăng trưởng mang tính bền vững. Như vậy cốt lõi vấn đề là quan
hệ giữa năng lực sản xuất ra sản lượng với số lượng lao động có việc làm
chứ không phải quan hệ vỏ giữa lạm phát cao với thất nghiệp thấp! Mặc
dù ngay cả cái quan hệ vỏ này cũng chỉ diễn ra trong ngắn hạn.
Hệ
thống Dự trữ Liên Bang Mỹ đều hiểu một cách cặn kẽ mối liên hệ này giữa
lạm phát và khe hở sản lượng. Những dấu hiệu ban đầu khi thành lập NHTW
Châu Âu (ECB) cũng cho thấy rằng ECB đã nhận thức rất rõ phạm vi mà họ
có thể duy trì an toàn lạm phát với mức lãi suất thấp nhưng chỉ trong
thời gian ngắn nhằm thúc đẩy tăng trưởng và việc làm. Ngân hàng ECB cũng
đã lặp lại lời tuyên bố rằng mức lãi suất thấp hơn không thể làm giảm
tỷ lệ thất nghiệp. Điều này hoàn toàn đúng không thể chối cãi trong dài
hạn, nhưng nếu một nền kinh tế đang hoạt động dưới mức tiềm năng và tỷ
lệ thất nghiệp đang cao hơn mức thất nghiệp tự nhiên NAIRU, thì lãi suất
có thể cắt giảm một cách an toàn, và từ đó sản lượng sẽ được thúc đẩy,
mà mức lạm phát không cần tăng…
Vậy
là: Những sưu tầm và bình luận nêu trên đã góp phần khẳng định rằng nền
sản xuất hàng hoá và những người hưởng thụ từ nền sản xuất này luôn
luôn ủng hộ và hoan nghênh một NHTW thông minh và độc lập hoàn toàn với
Chính phủ. NHTW là một Định chế tài chính chứ không phải là một Định chế
chính trị. Chỉ khi là NHTW độc lập thì gánh nặng của nền sản xuất mới
có thể đè lên vai họ với trọng trách: “NHTW là người chịu trách nhiệm
trước người lao động về tình trạng lạm phát vượt quá những ngưỡng cho
phép .!.
NGUỒN: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ THÁNG 7/2008
0 comments:
Post a Comment