TS. NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
KHOA LUẬT, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Sở hữu chéo cổ phần ở
Nhật Bản vẫn được duy trì làm cơ sở gắn kết thực hiện mục đích liên kết
kinh doanh của các công ty cổ phần (CTCP). Pháp luật không cấm sở hữu
chéo cổ phần nhưng đặt ra các quy định để hạn chế những bất cập.
Sở hữu chéo, nguyên nhân và bất cập
Sở hữu chéo cổ phần tồn
tại dưới hình thái: (i) công ty A sở hữu cổ phần của công ty B và ngược
lại; hoặc (ii) công ty A sở hữu cổ phần của công ty B, công ty B sở hữu
cổ phần của công ty C và công ty C sở hữu cổ phần của công ty A (sở hữu
chéo gián tiếp).
Ngay từ năm 1981, Luật
Thương mại Nhật Bản đã quy định cấm công ty con sở hữu cổ phần của công
ty mẹ, trừ một số trường hợp đặc biệt. Sau đó, luật công ty cũng cấm
thực hiện quyền biểu quyết của cổ đông là công ty sở hữu chéo ngược
chiều trong trường hợp sở hữu chéo có dấu hiệu chi phối thực chất.
Sở hữu chéo bùng nổ ở
Nhật Bản từ những năm 1960 trong thời kỳ phục hồi kinh tế sau Chiến
tranh Thế giới thứ II. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán suy giảm,
sở hữu chéo giúp cho các CTCP có khả năng vay vốn dễ dàng từ ngân hàng
và giúp ngân hàng tăng trưởng lợi nhuận từ cho vay. Sở hữu chéo là công
cụ để hạn chế mua thâu tóm CTCP của nước ngoài trong bối cảnh Nhật Bản
buộc phải thực kiện cam kết tự do hóa thương mại khi trở thành thành
viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD).
Trên thực tế, sở hữu chéo
tạo ra liên kết giữa các công ty trong các tập đoàn sản xuất như Tập
đoàn Toyota. Ngoài ra, phải kể đến sự liên kết duy trì sở hữu chéo giữa
ngân hàng trung tâm và các công ty sản xuất công nghiệp, công ty thương
mại trong 6 Tập đoàn quy mô lớn nhất Nhật Bản là Mitsubishi, Sumitomo,
Mitsui, Sanwa, Fuyo và Ichikan. Kết quả sở hữu chéo là làm giảm số cổ
phần lưu thông và tác động vào giá cổ phần, duy trì chúng ở mức cao.
Bên cạnh những lợi thế kể
trên, sở hữu chéo cổ phần còn bộc lộ một số mặt hạn chế như có thể làm
phát sinh hiện tượng làm hình thức hóa vai trò của đại hội đồng cổ đông
trong quyết định phương hướng kinh doanh. Về mặt kế toán, do sở hữu chéo
cổ phần của các công ty có hiệu quả kinh doanh thấp, cổ phiếu nắm giữ
xuống giá là tác nhân buộc nhiều công ty phải sử dụng lợi nhuận để bù lỗ
phát sinh do nắm giữ cổ phần chéo; hay để xảy ra tình trạng không hạch
toán kế toán đầy đủ và chính xác các chi phí để duy trì sở hữu chéo.
Giải pháp hạn chế sở hữu chéo
Ngay từ năm 1981, Luật
Thương mại Nhật Bản đã quy định cấm công ty con sở hữu cổ phần của công
ty mẹ, trừ một số trường hợp đặc biệt. Sau đó, Luật Công ty cũng cấm
thực hiện quyền biểu quyết của cổ đông là công ty sở hữu chéo ngược
chiều trong trường hợp sở hữu chéo có dấu hiệu chi phối thực chất. Bên
cạnh đó, luật cấm độc quyền gián tiếp tác động quan hệ sở hữu chéo cổ
phần thông qua quy định về giới hạn sở hữu và nghĩa vụ báo cáo nhằm kiểm
soát tình trạng độc quyền.
Về vấn đề sở hữu chéo của
các ngân hàng, từ 1/4/2000, Nhật Bản áp dụng chế độ hạch toán kế toán
theo giá thị trường đối với hàng hóa tài chính thay thế chế độ hạch toán
theo nguyên giá. Kết quả là các ngân hàng thương mại (NHTM) và công ty
sở hữu chéo cổ phần bị rơi vào tình trạng thua lỗ do định giá cổ phần sở
hữu chéo theo giá thị trường. Các chủ thể này đã nhận thức được sở hữu
chéo là tác nhân gây ra tăng trưởng lợi nhuận âm và từng bước điều chỉnh
tỷ lệ sở hữu cổ phần chéo. Từ năm 2000, nhiều NHTM và các công ty đã
bán tháo số lượng lớn cổ phần khiến hàng loạt cổ phiếu sụt giá. Tình
trạng này đã tạo ra áp lực đối với thị trường chứng khoán và xã hội nói
chung.
Trong bối cảnh đó, năm
2001, Nhật Bản ban hành Luật Hạn chế Ngân hàng sở hữu cổ phần. Luật này
quy định về tổ chức và hoạt động của tổ chức mua cổ phần sở hữu của
NHTM, ngân hàng tín dụng dài hạn, quỹ nông lâm trung ương, liên minh quỹ
tín dụng.
Như vậy, sở hữu chéo cổ
phần vẫn được duy trì ở Nhật Bản nhưng pháp luật nước này đã đặt ra khá
nhiều quy định chặt chẽ để hạn chế những bất cập của chúng.
NGUỒN: TẠP CHÍ TÀI CHÍNH & ĐẦU TƯ SỐ số 5 – 2013
0 comments:
Post a Comment