THS. NGUYỄN THỊ LAN – KHOA LUẬT DÂN SỰ – ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Công ước
quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) đã
được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn vào ngày 18/12/1979 và có hiệu
lực vào ngày 03/09/1981. Đây là một văn kiện quốc tế tổng hợp nhất về
quyền của phụ nữ. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế
giới tham gia Công ước này. Nội dung các quyền của phụ nữ thể hiện sự
bình đẳng giới được quy định rất cụ thể trong từng điều của Công ước ở
tất cả các lĩnh vực khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
muốn nhấn mạnh tới quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân và gia đình mà
trọng tâm là quyền xác định cha, mẹ, con trên cơ sở bình đẳng giới.
Điểm D Điều 16 của CEDAW đã quy định về quyền bình đẳng của nam nữ trong quan hệ với con cái như sau: “Quyền
và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha, mẹ, bất kể tình trạng
hôn nhân của họ ra sao, về các vấn đề liên quan đến con cái họ. Trong
mọi trường hợp lợi ích của con cái phải là điều quan trọng nhất”.
Quan hệ giữa cha mẹ và con là mối quan hệ huyết hệ tự nhiên vốn rất
thiêng liêng và nhạy cảm. Việc xác định mối quan hệ này có ý nghĩa trong
mọi thời đại và được đặc biệt coi trọng bởi nó liên quan đến rất nhiều
mối quan hệ khác về dân sự, hôn nhân gia đình. Dưới góc độ bình đẳng
giới việc xác định cha, mẹ, con chủ yếu thể hiện ở quyền sinh con và xác
định cha, mẹ, con.
Kể từ khi giành được chính quyền, Nhà nước ta rất chú
trọng đến vấn đề bình đẳng giới. Điều đó được thể hiện rất rõ trong các
bản hiến pháp qua các thời kì lịch sử của đất nước. Với vấn đề xác định
cha, mẹ, con, hệ thống pháp luật về hôn nhân gia đình đã quy định tương
đối đầy đủ. Trong những quy định này, sự bình đẳng về giới được thể
hiện khá rõ nét.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật HN&GĐ
năm 2000) trên cơ sở kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước
đã dành hẳn một chương quy định về vấn đề xác định cha, mẹ, con (Chương
VII từ Điều 63 đến Điều 66) bao gồm việc xác định cha, mẹ; quyền xác
định con; quyền nhận cha, mẹ; chủ thể có quyền xác định cha, mẹ, con.
1. Bình đẳng giới trong việc xác định con chung của vợ chồng
Thứ nhất, khi người phụ nữ có hôn nhân hợp
pháp, việc xác định quan hệ cha mẹ và con được thể hiện trong nguyên tắc
suy đoán pháp lí quy định tại Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2000: “Con
sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì
đó là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và
được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng”.
Theo nguyên tắc suy đoán pháp lí này, mỗi khi sinh
con người phụ nữ không cần phải chứng minh chồng mình là cha của đứa trẻ
do mình sinh ra, cũng như không được ngăn cản chồng mình thực hiện
quyền là cha của đứa trẻ do mình sinh ra. Người chồng đương nhiên được
xác định là cha của đứa trẻ đó và được thực hiện quyền làm cha của mình.
Như vậy, có thể thấy rằng sự bình đẳng giới thể hiện rất rõ trong việc
xác định con chung của vợ chồng. Pháp luật đã căn cứ vào thời kì hôn
nhân của vợ chồng để suy đoán mối quan hệ cha mẹ và con. Khi nam nữ trở
thành vợ chồng của nhau đều xuất phát từ yếu tố tình cảm; giữa họ phát
sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lí theo luật định như nghĩa vụ chung
thuỷ, thương yêu quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau… Mặt khác, do tác
động của nhiều yếu tố khác như điều kiện kinh tế, xã hội… có ảnh hưởng
đến cách nhìn nhận về tình yêu và hôn nhân gia đình nên không ít trường
hợp người vợ có thai trước thời kì hôn nhân hoặc thậm chí sinh con trước
thời kì hôn nhân thì đa số là do vợ chồng đã có quan hệ sinh lí trước
thời kì hôn nhân nên pháp luật vẫn suy đoán là con chung của vợ chồng.
Chính vì vậy, pháp luật không cần đưa ra định nghĩa thế nào là con được
thai nghén trong thời kì hôn nhân như pháp luật thời kì trước. Điều này
đảm bảo quyền lợi không chỉ của đứa trẻ mà còn bảo vệ quyền của người
vợ, người mẹ trong gia đình. Ngay cả trong trường hợp sau khi quan hệ
hôn nhân đã chấm dứt mà người vợ sinh con trong một thời gian luật định
(trong vòng 300 ngày kể từ khi chấm dứt quan hệ hôn nhân) thì pháp luật
vẫn xác định là con chung của vợ chồng. Điều đó đảm bảo ổn định quan hệ
cha mẹ và con đồng thời giúp cho người phụ nữ yên tâm thực hiện thiên
chức của mình.
Thứ hai, việc xác định lại quan hệ cha, mẹ, con, tại Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng quy định: “Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được toà án xác định”.
Trong thực tiễn, khi người vợ sinh con, người chồng đã làm giấy khai
sinh cho đứa trẻ, lấy họ tên mình là họ tên cha của đứa trẻ. Thậm chí,
đứa trẻ đó về mặt sinh học không phải là con của người chồng nhưng về
nguyên tắc trước tiên người chồng vẫn được xác định là cha, sự im lặng
của người chồng được coi là sự mặc nhiên thừa nhận mối quan hệ cha con.
Pháp luật không can thiệp sâu vào mối quan hệ này. Miễn rằng đứa trẻ
được sống trong bầu không khí yêu thương và thông cảm, có cha, mẹ và
người mẹ được chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn với chồng mình.
Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp, sau khi người vợ
sinh con người chồng đã không thừa nhận đứa trẻ là con của mình do nghi
ngờ sự chung thủy của người vợ và họ đã yêu cầu xác định lại quan hệ
cha con. Trong trường hợp này, người yêu cầu phải có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ chứng minh không có mối quan hệ cha con. Người vợ không có
nghĩa vụ này. Nếu người chồng không xuất trình được chứng cứ chứng minh
thì pháp luật vẫn mặc nhiên thừa nhận người chồng là cha của đứa trẻ.
Nếu người mẹ, không thừa nhận đứa trẻ là con của mình
thì người mẹ cũng phải cung cấp chứng cứ để chứng minh. Vì trên thực tế
có nhiều trường hợp do vô ý hoặc cố ý dẫn đến việc nhiều đứa trẻ bị lẫn
lộn hoặc bị đánh tráo… Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản pháp luật
có liên quan không có một hướng dẫn cụ thể nào về vấn đề này. Điều đó
cũng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể.
2. Bình đẳng giới trong việc xác định cha mẹ cho con ngoài giá thú
Trong trường hợp người phụ nữ sinh con mà không có
quan hệ hôn nhân (tức là sinh con ngoài giá thú). Luật HN&GĐ năm
2000 chỉ quy định những chủ thể có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha mẹ
và con, mà không quy định cụ thể việc xác định này phải dựa trên cơ sở
nào. Như trên chúng tôi đã phân tích nếu người phụ nữ có hôn nhân hợp
pháp thì đó là thời kì hôn nhân là căn cứ để xác định quan hệ cha mẹ và
con. Còn trong trường hợp này người phụ nữ lại không có hôn nhân hợp
pháp, do vậy việc xác định quan hệ cha mẹ và con dựa trên cơ sở nào thì
hiện nay pháp luật còn bỏ ngỏ. Khi người phụ nữ yêu cầu xác định cha cho
con của mình thì về nguyên tắc họ phải chứng minh một người đàn ông nào
đó là cha của đứa con mà mình đã sinh ra, họ có nghĩa vụ phải cung cấp
chứng cứ, nếu cần thiết có thể yêu cầu giám định gen và họ phải chịu chi
phí giám định gen. Chúng tôi cho rằng quy định này chưa thật sự phù hợp
mà cần quy định những biệt lệ nhất định. Bởi khi sinh con ngoài giá
thú, người phụ nữ đã chịu rất nhiều sự thiệt thòi từ khi mang thai, sinh
con và nuôi con một mình, bên cạnh đó là sự trốn tránh trách nhiệm của
người cha của đứa trẻ. Việc họ yêu cầu xác định cha cho con của mình là
một quyền chính đáng, vậy nên chăng nếu họ không xuất trình được đầy đủ
chứng cứ để chứng minh quan hệ cha con và phải yêu cầu giám định gen,
trong trường hợp này nếu người đàn ông nào đó được xác định là cha của
đứa trẻ thì người đó phải trả chi phí giám định hoặc ít nhất thì là một
phần chi phí giám định vì đó là trách nhiệm chung của hai người với tư
cách là cha, là mẹ của đứa trẻ. Như vậy mới thực sự đảm bảo sự bình đẳng
về giới trong trường hợp này. Hoặc trong trường hợp rõ ràng các đương
sự có khó khăn về kinh tế thì cần có cơ chế miễn, giảm chi phí giám định
cho đương sự.
3. Bình đẳng giới trong việc xác định cha mẹ cho con sinh ra theo phương pháp khoa học
Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con theo
phương pháp khoa học được áp dụng theo Nghị định số 12/NĐ-CP ngày
12/2/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học.
Quyền của người phụ nữ được đặc biệt bảo vệ trong
trường hợp này. Đó là tạo ra một hành lang pháp lí giúp cho người phụ nữ
thực hiện thiên chức của mình, bảo vệ hạnh phúc gia đình cho họ khi họ
không thể sinh con bằng con đường tự nhiên. Đối tượng được áp dụng trong
trường hợp này là cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân muốn sinh con
bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Điều 20 Nghị định số 12/NĐ-CP quy định:
“1. Trẻ ra đời do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh
sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người
phụ nữ độc thân.
2. Những người theo quy định tại khoản 1 Điều này
được xác định là cha, mẹ đối với trẻ sinh ra do thực hiện kĩ thuật hỗ
trợ sinh sản”.
Điều 21 Nghị định trên còn quy định: “Con được
sinh ra do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền yêu cầu
quyền thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho
trứng, cho phôi”.
Như vậy, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc
người phụ nữ độc thân được xác định là mẹ của đứa trẻ trong mọi trường
hợp kể cả người mẹ này nhận noãn, tinh trùng hoặc phôi từ người khác.
Giữa đứa trẻ và người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi không có mối
quan hệ cha mẹ và con về mặt pháp lí. Mặt khác, pháp luật cũng quy định
rất rõ một trong những nguyên tắc áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản là
phải thực hiện nguyên tắc bí mật. Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong những
trường hợp đặc biệt như để chữa bệnh thì cặp vợ chồng vô sinh hoặc
người phụ nữ độc thân cần được biết những thông số cần thiết về người
cho để đứa trẻ được bảo đảm sự an toàn cần thiết, người phụ nữ trong cặp
vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân vẫn không bị tước đi quyền
làm mẹ của mình.
Có thể nhận thấy một điều đặc biệt mới của việc sinh
con theo phương pháp khoa học là pháp luật cho phép người phụ nữ độc
thân cũng được áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản. Đây là một quyền lợi
rất chính đáng của người phụ nữ khi họ không muốn hoặc không có cơ hội
kết hôn mà vẫn có thể thực hiện được thiên chức của mình. Nếu như trước
đây, khi chưa có cơ sở pháp lí cho vấn đề này thì người phụ nữ độc thân
vẫn có thể thực hiện được thiên chức của mình nhưng điều đó có thể ảnh
hưởng đến hạnh phúc của một gia đình khác, đặc biệt là có thể ảnh hưởng
đến quyền lợi của người phụ nữ khác thì hiện nay, nếu áp dụng biện pháp
hỗ trợ sinh sản họ sẽ thực hiện được thiên chức của mình mà không còn
ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác. Tuy nhiên, trong trường hợp này
chỉ có quan hệ mẹ con duy nhất. Vì vậy, người phụ nữ sinh con và nuôi
con một mình, điều đó thực sự là một khó khăn và thách thức đối với họ.
Mặt khác, quyền lợi của đứa trẻ cũng phần nào bị ảnh hưởng. Do đó, về
mặt xã hội, cần phải có những chính sách đặc biệt đối với trường hợp
này.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật, nếu người gửi
tinh trùng bị chết thì cơ sở lưu giữ tinh trùng phải huỷ số tinh trùng
của người đó (khoản 2 Điều 18 Nghị định số 12/NĐ-CP). Việc lưu giữ tinh
trùng này được thực hiện trong quá trình cặp vợ chồng vô sinh thực hiện
kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, nếu người chồng không may chết mà cơ sở lưu
giữ tinh trùng huỷ số tinh trùng của người đó liệu có phù hợp không khi
không có sự bày tỏ ý chí của người vợ. Theo chúng tôi, nếu hai vợ chồng
đã thể hiện sự đồng ý sinh con nhờ biện pháp hỗ trợ sinh sản bằng văn
bản thì khi người chồng chết, người vợ vẫn có quyền đề nghị tiếp tục
thực hiện việc sinh con này, người vợ phải có quyền đối với số tinh
trùng của người chồng đang được lưu giữ. Và để bảo vệ quyền lợi của
người vợ thì phải quy định những biệt lệ khi áp dụng thời gian sinh con
tối đa trong trường hợp chấm dứt hôn nhân. Thông thường thời gian này là
300 ngày kể từ khi chấm dứt quan hệ hôn nhân. Nhưng trong trường hợp
sinh con theo phương pháp khoa học thì thời gian này có thể kéo dài hơn
phụ thuộc vào quá trình thực hiện biện pháp hỗ trợ sinh sản. Đứa trẻ ra
đời vẫn được xác định là con chung của vợ chồng và quyền của người vợ
trong cặp vợ chồng vô sinh được đảm bảo.
Điều kiện hạn chế li hôn có nên được áp dụng trong
trường hợp mà cặp vợ chồng vô sinh đã đồng ý bằng văn bản về việc sinh
con bằng biện pháp hỗ trợ sinh sản, trong quá trình tiến hành đã tạo
được phôi nhưng chưa đưa vào tử cung của người vợ thì người chồng yêu
cầu li hôn. Nếu xét thuần tuý về mặt pháp lí thì người vợ đang không
mang thai nên người chồng không bị hạn chế quyền li hôn. Nhưng đây có
thể coi là một trường hợp đặc biệt phải áp dụng sự hạn chế li hôn đối
với người chồng để đảm bảo quyền lợi cho người vợ. Trong trường hợp này
người chồng không thể đơn phương huỷ bỏ việc sinh con này nếu không có
sự đồng ý của người vợ.
Một điều đặc biệt trong vấn đề này là không đặt ra
vấn đề xác định lại quan hệ cha mẹ và con như những trường hợp thông
thường khác. Quan hệ cha mẹ và con là tất yếu và không thể phủ nhận
được. Chẳng hạn, nếu cặp vợ chồng vô sinh đã đồng ý bằng văn bản là nhận
tinh trùng của người khác để người vợ sinh con thì sau này người chồng
đương nhiên là cha của đứa trẻ mà họ không được quyền yêu cầu xác định
đứa trẻ đó không phải là con mình. Trong trường hợp này, pháp luật quan
tâm đến một người cha, người mẹ về mặt pháp lí hơn là về mặt sinh học.
Tóm lại, dưới góc độ bình đẳng giới việc xác định
cha, mẹ, con chủ yếu thể hiện ở quyền sinh con và quyền xác định cha,
mẹ, con. Những quyền này đã cụ thể hoá điểm D Điều 16 của CEDAW. Điều đó
chứng tỏ Việt Nam là một quốc gia rất quan tâm đến quyền lợi của người
phụ nữ trong xã hội nói chung và trong gia đình nói riêng. Pháp luật đã
tạo ra như những cơ chế tốt nhất để người phụ nữ thực hiện quyền của
mình, đặc biệt trong việc thực hiện thiên chức của mình và những quyền
liên quan đến thiên chức đó. Người phụ nữ trong xã hội hiện đại đã thực
sự được quan tâm và trong tương lai dưới góc độ pháp lí, quyền của người
phụ nữ cần được cụ thể hoá hơn nữa, loại bỏ hoàn mọi sự phân biệt đối
xử đối với phụ nữ./.
Các bài viết cùng tác giả: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/?s=%22NGUY%E1%BB%84N+TH%E1%BB%8A+LAN%22
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2006
0 comments:
Post a Comment